Chúa Nhật XXXIV TN - ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ |
ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA |
Lm Giuse Đinh lập Liễm |
A. DẪN NHẬP. Hôm
nay là ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội hướng lòng chúng ta về
ngày chung thẩm, ngày mà mọi người sẽ qua đi và vũ trụ sẽ ra tro. Ngày
đó không ai biết được nhưng chỉ biết một điều là ngày ấy Chúa Giêsu sẽ
xuất hiện lần thứ hai với dáng vẻ uy nghi của một vị Vua
Thẩm phán, có các thiên thần hầu cận, để phán xét kẻ sống và kẻ chết như
chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính. Ngài
sẽ phán xét thế nào ? Ngài
sẽ phán xét theo tiêu chuẩn Ngài đã đề ra trong bài Tin mừng hôm nay : Tình
yêu đối với tha nhân. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân trong nhiều
dụ ngôn. Những ai thể hiện
tình yêu ấy đối với Ngài qua tha nhân thì sẽ được thưởng, còn ai không
yêu thương Ngài qua tha nhân thì sẽ bị phạt, đúng
như quan niệm của dân gian :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” :
việc lành việc dữ sau cùng đều có thưởng phạt. B. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Ez
34,11-12.15-17. Lịch
sử đen tối của dân Israel đã cho thấy Thiên Chúa đã đặt một số người làm
mục tử để chăm sóc Israel là đoàn chiên của Chúa. Nhưng những người này
chểnh mảng với nhiệm vụ chăn dắt mà chỉ lo tìm lợi riêng, do đó, họ đã
dẫn chiên đến một tai họa lớn : dân Israel bị bắt cầm tù rải rác khắp đế
quốc Babylon. Họ đã bị xa cách nhau, phải tiếp xúc với dân ngoại đạo, họ
đã thấy cô đơn và bị bỏ rơi. Vì
thế, qua miệng tiên tri Ezéchiel, Thiên Chúa cho họ biết rằng chính
Thiên Chúa sẽ đi tìm họ, tập họp họ lại và lấy lại đoàn chiên khỏi tay
những mục tử xấu ấy và chính Ngài sẽ chăm sóc họ như mục tử chăm sóc
đoàn chiên mình. + Bài
đọc 2 : 1Cr
15,20.26a-28. Thánh
Phaolô đưa ra cho tín hữu một so sánh : Adong cũ đã làm hỏng con người
và làm cho con người phải chết. Chúa Kitô là Adong mới đã chiến thắng
tội lỗi và sự chết, giải thoát con người và ban cho con người sự sống
mới. Do đó, Chúa Giêsu trở nên thủ lãnh nhân loại để đưa
con người vào Nước Trời. Và
đến ngày cách chung, Chúa Giêsu Kitô Vua đã chiến thắng mọi kẻ thù và
nắm quyền trên mọi loài mọi vật, sẽ trao lại cho Thiên Chúa Cha tất cả
vương quyền và Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và
cùng hưởng vinh quang với Ngài. + Bài
Tin mừng : Mt
25,31-46. Dụ
ngôn mà thánh Matthêu mô tả bằng hình ảnh có tính cách khải huyền về
ngày phán xét sẽ diễn ra trong ngày sau cùng. Khi
đó, Đức Giêsu sẽ xuất hiện như một vị Vua thẩm phán đầy uy quyền, có các
thiên thần hầu cận. Ngài sẽ tách biệt người lành kẻ dữ ra hai bên như
người mục tử tách chiên ra khỏi dê để xét xử công minh. Tiêu
chuẩn của cuộc xét xử là luật
yêu thương. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân : những ai thể
hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện
tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lại, những
ai không thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân tức là không yêu thương
Ngài thì sẽ bị trừng phạt. C. THỰC HÀNH LỜI
CHÚA.
Đức
Kitô Vua Thẩm phán I. BỐI CẢNH
NGÀY LỄ. Hôm
nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để
nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải
chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị
Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Đức
Giáo hòang Piô XI đã thiết
lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm
thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20,
thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về
phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo
hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương
quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật
tự nhân loại. Ngoài
ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái,
Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người
Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên
các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”. II. MỘT
NƯỚC CẦN CÓ VUA. Người
ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể
có cảnh “cá mè một
lứa” được, nhất là trong một nước. Hầu
hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời,
vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới
giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua là Thiên
tử, Trời có mắt, đèn Trời
soi sáng, xin Trời phù hộ. Bên
phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương,
Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các
ngài thật lý tưởng. Kinh
thư viết :”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” : Trời
giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết
Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để
giúp dân. Vua Vũ Vương viết :”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng
tuy tứ phuơng” : Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương. Bên
Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con
Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel :”Thế
nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19). Và ai được chọn làm
vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của
Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael :”Hãy đi nói với
Đavít :Ta là cha nó, nó
sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện
sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân,
Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ
khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192). Truyện :
nữ hoàng Elizabeth lên ngôi Năm
1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long
trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân
đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương
cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư
đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào
lộn trên không. Vua
chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị
tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ
quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh
lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao
8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang. III. ĐỨC
GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA. 1. Nơi
Đức Giêsu xưng vương. Sau
phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng
Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua
theo kiểu thế gian. Ngài chỉ
nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương
tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua : “Ông nói phải, Tôi là Vua”. Chính
Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa. Như vậy, vô tình
Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái. Ngoài
ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ
I.N.R.I. (Jesus Nazareth
Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công
nhận Đức Giêsu là Vua. Ngai
vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân,
giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là
:”Xin tha cho họ” và cao
điểm là :”Mọi sự đã hoàn tất”. 2. Vương
quốc của Ngài. Vương
quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không
thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập
ra không có lãnh thổ hay tài nguyên vì
vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu,
nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung. :”Nuớc Người
sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính). IV. ĐỨC
GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ. Đức
Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng
mình là Vua Mục
tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên
lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt
chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Chính
Đức Giêsu đã tuyên bố :”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên
Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm :”Ta đến để cho chiên Ta
được sống và được sống dồi dào. Chính
Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Ờ
Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống
làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu
chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc
hằng sống.” Chính vì thế,
Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên
mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe
danh thánh Giêsu” (Pl 2,6). Nếu Đức
Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương
quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những
con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng
hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ :”Ta bảo thật các ngươi, mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta
đây, là các ngươi đã làmcho
chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc
vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. V. ĐỨC
GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN. 1. Ngài
đã khẳng định vậy. Trong
kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng :”Và Người sẽ trở lại trong
vinh quang để phán xét
kẻ sống và kẻ chết”. Lòng
tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa :”Khi Con Người đến
trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người
sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp
trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt
chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên
trái”(Mt 25,31). Ngai
uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh
quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt
19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa
Giêsu là Thiên Chúa. 2. Ngài
phán xét như thế nào ? a) Dựa
trên tình thương. Sự
phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may
mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ
mà chúng ta đã làm cho người khác. Cha Mark
Link nói :”Khi Chúa
đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài
sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”. Những
điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ,
an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù... Đó là những việc mà ai cũng có
thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến mà
chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới
vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này. Người
Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất
chính xác và cao sâu về Ông
Trời : Ông Trời là chủ tể
của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo
ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai
câu phản ảnh rõ nhất quan
niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới
trời lồng lộng, thưa mà không lọt được. Và
còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy :”Thuận thiên giả
tồn, nghịch
thiên giả vong : Người
sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất. Dù
là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già... cuối cùng
rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi
đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương. Người
nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong
hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống
mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh
viễn trong cõi trầm luâm. (Lm
Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564) b) Giúp
đỡ không tính toán. Tất
cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích
trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là
bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật. Trái
lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra :”Nếu chúng
tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”. Cũng
có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và
công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà
chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ. Giúp
đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình. Sự
giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài
sự giúp đỡ cả. Truyện :
thánh Martinô thành Tours. Ông
là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi
ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí ,
Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run
rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có : ông cởi chiếc áo nhà binh
đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối
hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa
Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một
thiên sứ hỏi Ngài :”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó ? Ai đã cho
Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời :”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”. c) Cho
đi thì sẽ được. Tất
cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng
ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha
nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa.
Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho
Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử
chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”
: có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được
thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm
thay cho chúng ta được.. Truyện :
cho đi thì sẽ được. Một
ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất
giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong
thành phố Luân đôn. Đến một
số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được
bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy
là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo
nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời
vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen. Hôm
sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những
người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự
của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng
và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước
mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho
“bà ăn mày” : chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn
được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa
trống không. Duy chỉ có
chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang
trọng. Mọi người chưa hết
ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố :”Hôm qua tôi đích thân
đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay
tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn
ra mời qúi vị những thứ mà
qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy
trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng
trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.
(Quê
Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139) Nghe
xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối
cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là
nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo
đức : đó là yêu thương giúp đỡõ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu
cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi
lại với chúng ta. Nếu
Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo
của Ngài hẳn phải là đạo
yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa
coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính
Ngài. Rồi trước khi
chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết :”Ta bảo
thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là
các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập
thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô
hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi
miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và
con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân
chúng ta để đến với mọi người.
Laudetur
Christus Rex in saecula saeculorum. |