Chúa Nhật XV thường niên - Năm A
DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Người lấy dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều”: Matthêu thường dùng động từ nói (lalein) khi Chúa Giêsu thốt ra các dụ ngôn; vì đây không còn là rao giảng (kêrussein), là loan báo công bố Nước Trời, nhưng là giáo huấn về Nước đó. Một kiện quan trọng: giáo huấn này được ban bố cho các đám đông nhưng chỉ có các môn đồ là hiểu được. Đây không phải một giáo huấn bí truyền dành riêng cho một nhóm người được khai đạo như trong phái Essêni, cũng chẳng phải là các chân lý tổng quát mà quần chúng có thể đồng hóa trực tiếp, song là các dụ ngôn được đưa ra cho hết thảy mọi người. Trong hy ngữ, danh từ parabolô dịch chữ hy bá mâshâl là tiếng chỉ mọi loại giáo huấn dưới hình thức so sánh, nhiều khi khó hiểu: người ký lục "cố moi ra nghĩa bí ẩn của các câu ví, lăn lộn với những câu thai của dụ ngôn" (Hc 39, 3). Tư tưởng của ba Tin Mừng nhất lãm là: Việc Chúa Giêsu chọn hình thức giảng huấn cho quần chúng là một điều đáng ngạc nhiên.

“Này người gieo giống đi ra": Dù ít được khai triển hơn chủ đề mùa gặt, chủ đề gieo giống cũng được Cựu ước biết đến (Hs 2, 25; Gr 31, 27; Dcr 6, 12- 13). Ở đây dụ ngôn kể lại một sự kiện đã xảy ra; mọi động từ đều ở thì aoriste; không có vì cho thấy đó là một quá trình phi thời gian. Kỳ thực, Chúa Giêsu loan báo một biến cố cánh chung: thời sau hết đã bắt đầu, Thiên Chúa đã gieo Hạt giống của Người (Chúa Giêsu) trên trái đất. Từ đây điều quan trọng là cái kết quả cuối cùng của việc gieo giống đó.

Các câu 4-8 thật khó chú giải. Dụ ngôn nhấn mạnh trên điểm nào, trên thất bại tạm thời của việc gieo vãi hay trên thành công tối hậu? Nếu nhấn mạnh đến sự thành công là biến dụ ngôn thành một lời khích lệ: giờ Thiên Chúa đã đến và cùng với giờ đó là cả một vụ mùa phì nhiêu không thể tưởng; dù thất bại và bị chống đối, Thiên Chúa vẫn làm xuất hiện từ những bước đầu chẳng mấy hy vọng đó một chung cục huy hoàng vĩ đại như Ngài đã hứa (Jeremias). Lối giải thích này đặc biệt dựa trên câu cuối cùng là câu nói đến năng suất 100, 60 và 30 một năng suất coi như khổng lồ, so với các con số Dalman đưa ra, theo đó thì năng suất trung bình thường khoảng 7, 5).

Nhưng lối giải thích này đụng phải một vài khó khăn:

1/ Một sử gia về kinh tế, K.D.White ("The Parable of 'the Sower", JTS 15~1964) 33-37-bài báo đã được Léon Dufour trích dẫn), cho thấy cách tính của Dalman vô giá trị năng suất 100 hay 400 trên 1 không có gì lạ lùng, vì vẫn thấy có trong vùng Giléad, gần Gadara chẳng hạn.

2/ Nếu Matthêu muốn nhấn mạnh đến sự phong nhiêu của mùa gặt, có lẽ ông đã nhấn mạnh theo chiều đi lên (30, 60, 100) thay vì đi xuống (100, 60, 30), vì như thế sẽ phá vỡ tính cách lạc quan của dụ ngôn và làm yếu đi bài học tín thác mà ông muốn đưa ra.

3/ Trong 5 câu của dụ ngôn, đã có 4 câu mô tả sự thất bại trong việc gieo vãi; nơi lời giải thích dụ ngôn, cũng tương đương như vậy.

4/ Việc nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống ăn khớp hơn nhiều với văn mạch chung của các chương ấy trong Tin Mừng Matthêu, đặc biệt hai chương 11-12 miêu tả phong trào chống đối ngày càng đi lên trước các việc quyền năng trong các chương 8-9.

Thành thử xem ra phải đọc lại dụ ngôn trong viễn ảnh này. Dĩ nhiên nó không tuyệt đối loại bỏ lối chú giải "lạc quan" (Jeremias, G.Dehn v.v...) vì quả thực hành động của Đấng Messia sẽ khải hoàn vinh thắng cách bất ngờ. Nhưng vì các người đồng thời của Chúa Giêsu liên kết (cách tự nhiên) Đấng Mêssia với thành công, nên đấy chắc không phải là khía cạnh Người muốn nhấn mạnh trong các dụ ngôn của Người. Điều làm nên "mầu nhiệm vương quốc", mầu nhiệm mà chỉ một nhóm nhỏ gồm các “người bé mọn" mới có thể hiểu, chính là việc Đấng Messia chỉ thành công sau khi đã gặp thất bại. Do đó có thể tóm kết ý nghĩa của dụ ngôn như sau: Như người gieo giống (xứ Palestine) chỉ thành công sau khi trải qua biết bao khó khăn trở ngại, thì cũng vậy, Nước Thiên Chúa do Chúa Giêsu khai dựng chỉ có thể thiết lập sau khi đã trải qua nhiều thất bại ê chề. Và chính đó là điều mà người Biệt phái cũng như đám đông không thể "hiểu".

"Đã ban cho các con biết những mầu nhiệm Nước Trời": Trong các Tin Mừng, chỉ ở đây mới có thành ngữ "mầu nhiệm Nước Trời". Theo văn mạch của đoạn văn, thành ngữ này ám chỉ nhiệm cục của Thiên Chúa theo đó việc khai mạc Nước Trời được thực hiện xuyên qua các thất bại và thử thách của Chúa Giêsu. Hình thức parfait của động từ cho biểu lộ đây là sự hiểu biết mà các môn đồ đang có bây giờ, vì trong quá khứ nó đã được ban cho họ, nhờ và trong sự hiểu biết Chúa Giêsu; đây không phải là một mặc khải đặc biệt được thêm vào kiến thức của họ về Chúa Giêsu từ trước. Khi chấp nhận trở thành ké "bé mọn", khi đặt niềm tin vào Chúa Giêsu mà họ đang thấy (dưới những khía cạnh nhiều khi rất đáng ngạc nhiên), họ đi vào mầu nhiệm Nước Trời, mà Chúa Giêsu là tâm điểm và là chìa khóa giải thích.

"Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm": Ai biết ngoan ngoãn khiêm nhu và rộng mở lòng mình đối với Thiên Chúa, sẽ được ban cho ơn hiểu biết dồi dào về mầu nhiệm của Ngài; nhưng kẻ nào chỉ khư khư nắm giữ các quan niệm chật hẹp và quá nhân loại về Thiên Chúa, sẽ bị cất mất cả cái điều mà họ tưởng đang có; ngày phán xét, họ sẽ bị tước đoạt tất cả.

"Mắt các con có phúc...": Lời trích dẫn Isaia trong câu trước nói tới những kẻ nhìn và nghe mà không hiểu. Để theo đúng lối tương phản Chúa Giêsu muốn, phải chú giải mối phúc này như sau: các con có phúc không những vì đã nhìn và nghe cái mà mọi người đều nghe và nhìn. (Nghĩa là bản thân Ta và các công việc của Ta), nhưng còn nhìn và hiểu nữa.

"Vậy các con hãy nghe dụ ngôn người gieo giống": Lời giải thích dụ ngôn đi theo một hướng hơi khác với hướng của dụ ngôn (đó là điểm mà, ngoài một số sự kiện liên hệ đến ngữ học làm ta tin rằng đây là một kiểu chú giải khuyến thiện do Giáo Hội sơ khai đưa ra, nhưng giả thuyết này không được chứng minh). Trong dụ ngôn, chính sự kiện gieo giống, nghĩa là hành động của Thiên Chúa trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, nằm hàng đầu. Trong khi ở phần giải thích, đó lại là cách thế đón nhận Lời, là khía cạnh chủ quan, là lời đáp trả của mỗi người. Tâm điểm đã bị xê dịch: từ một giáo huấn về mầu nhiệm của một Đấng Messia chịu thất bại về phương diện nhân loại người ta đi sang việc khuyến cáo đề phòng, sang lời huấn dụ hãy biết đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù sao, giữa dụ ngôn và lời giải thích, không có đối nghịch mà chỉ có khác biệt về trung tâm phải nhấn mạnh thôi.

KẾT LUẬN

Khi nghe dụ ngôn này, quần chúng có thể nhận ra mình trong ba loại đất cằn cỗi kia, và đi từ suy tư đó, họ có thể hồi tâm lại, mặc những tâm tình xứng hợp để hiểu (vì ánh sáng nửa vời của dụ ngôn vẫn là "một ân huệ, một lời mời gọi hãy cầu xin nhiều hơn và nhận lãnh nhiều hơn " chú thích của BJ). Còn các môn đồ vừa được chất vấn vừa được trấn an: được chất vấn để trở nên mảnh đất tốt hầu sinh hoa quả đến mức tối đa, và được trấn an nhờ việc Chúa Giêsu hoàn toàn làm chủ tình thế: Người ý thức các thất bại của mình và cho thấy chúng đã được tiên liệu trong kế hoạch của Thiên Chúa. Dụ ngôn cỏ lùng tiếp liền dụ ngôn người gieo giống loan báo các thất bại đó sẽ không ngăn cản nổi chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa trong ngày mùa sau hết.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Biết bao chính nhân và ngôn sứ Cựu ước, quảng đại và sẵn sàng hơn ta, đã suốt đời trông chờ sự mặc khải đã ban cho ta, mà không được. Họ mong ước nghe, thấy điều ta nghe thấy, nhưng không có gl được ban cho họ cả. Còn chúng ta ngày nay được Chúa tỏ lộ cho "các mầu nhiệm Nước Trời " qua tiếng nói của Giáo Hội.

2) Chúa Kitô đến đảo lộn lịch sử thế giới bằng cách gieo vào đó hạt giống Lời Người. Thế giới này trước kia cằn cỗi và đông ngóng ơn cứu độ, bây giờ có thể trở thành phong nhiêu và sinh được hoa trái. Cũng thế, Lời Chúa mà ta nghe mỗi Chúa Nhật phải đến đảo lộn cuộc đời của ta, kéo nó ra khỏi vùng sa mạc cằn cỗi, để làm nó đơm hoa trong các việc thiện và trong niềm vui.

3) Đôi khi ta giống như con đường trong dụ ngôn: nhận lãnh nhiều dấu chỉ của Chúa, nghe nhiều lần lời Tin Mừng, nhưng lời đó chẳng nói gì với ta, ta như người không hiểu.

4) Trái lại nhiều lúc khác ta nghe và vui vẻ đón nhận lời Tin Mừng, nhưng giống như vùng đất sỏi đá của dụ ngôn. Lời Chúa chạm đến ta như một luồng sáng, như một điều hiển nhiên, như một ao ước thực hiện ngay tức khắc. Nhưng trước khi ta bắt tay hành động, thì các trở ngại đã đến chồng chất, dù đôi khi không quan trọng mấy. Vì lời chế giễu của một người thân, vì nể nang kẻ khác mà tất cả tan tành như mây khói.

5) Cũng có khi ta đã bắt đầu sống thực một lời Tin Mừng khó khăn nào đó. Nhưng các trách vụ, các lo lắng thường nhật, đời sống xã hội với những yêu sách trần tục của nó đã làm ta chỉ trung tín trong chốc lát. Và lời Chúa đã thành phụ tùy.

6) Thỉnh thoảng ta là mảnh đất tốt, và rất lâu, có lẽ trong nhiều năm ta cảm nghiệm được niềm vui sâu xa được trọn vẹn thuộc về Chúa và anh em. Đó là một ân huệ lớn lao, ta phải khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.

7) Mảnh đất tốt là những người, như các môn đồ, tín thác vào Chúa dù Lời Ngươi gặp nhiều thất bại nhất thời như. Giáo Hội bị bách hại, một số linh mục sống bê bối, nhiều Kitô hữu ít sống Tin Mừng, tội lỗi của bản thân ta, những cám dỗ thường trực thúc giục ta sống đời ích kỷ.

8) Có nhiều dị biệt trong việc hiểu Lời Chúa. Tất cả những kẻ đạt đến đức tin không nhất thiết đạt đến sự trưởng thành Kitô giáo của người môn đồ đích thực của Chúa Giêsu. Đức tin có thể coi như mầm kiến thức và khôn ngoan của- Thiên Chúa. Nhưng chính mức độ yêu thương và từ bỏ của mỗi người chúng ta mới quyết định mức độ thâm sâu mà Thiên Chúa đưa ta vào tròng lãnh vực thâm giao với Ngài.

9) Không ai có thể xét đoán sự phong nhiêu của kẻ khác. Nào ai biết được bề trong các trở ngại mà người bên cạnh gặp trong cuộc: sống Kitô hữu của họ (chim trời, Satan, gai góc, mặt trời. nóng cháy của dụ ngôn)? Biết đâu khi gặp cùng một khó khăn như thế, chính ta lại cằn cỗi hơn...

10) Niềm vui vỡ bờ của môn đồ Chúa Giêsu là biết rằng: dù gặp trở ngại, Lời Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng trong các tâm hồn và làm phát sinh một vụ mùa phì nhiêu. Trong lúc chờ đợi mỗi người hãy tìm cách sống Lời Chúa trong chính cuộc sống của mình.