Chúa Nhật VII thường niên - Năm A |
ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN... |
Chú giải của Fiches Dominicales |
“ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN NHƯ CHA ANH EM TRÊN TRỜI LÀ ĐẤNG HOÀN THIỆN” VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: 1. Những áp dụng cụ thể của luật mới… Khi tuyên bố rằng Ngài "đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện toàn”. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu mạc khải "sự công chính" mới của Nước Trời hệ tại điều gì: đó không phải là giữ Luật cách hình thức, nhưng là "tự điều chỉnh" theo ý Chúa Cha như Ngài, là sống thông hiệp trong tình yêu và tự do của Người Con như Ngài. Rồi nhờ vào 5 minh họa, Ngài cụ thể hóa "sự công chính” mới này, và cho biết rằng để thực hiện toàn bộ Lề luật người tín hữu phải đầu tư toàn bộ cuộc sống của mình. Cả năm minh họa đều bắt đầu bằng một dạng thức duy nhắt biểu lộ một quyền lực phi thường: ‘Anh em đã nghe người xưa được dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết’. Ba minh họa đầu tiên trong Phúc âm chúa nhật vừa qua, hai minh họa cuối cùng trong Phúc âm hôm nay. Minh họa thứ tư nhân nhượng mối tương quan và Để tránh những sự trá thù thái quá ngoài tầm kiểm soát luật báo thù (loi du talion) dự kiến kẻ gây hấn sẽ bị đối xử tương xứng với điều thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân "Mắt đền mắt" - nhưng không phải là đền hai mắt, "răng đền răng" nhưng không phải là cả hàm (xem Lêvi) Luật này đã là một tiến bộ thực sự trong việc trấn áp tội phạm. Phần Đức Giêsu, ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác". Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẽ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp, và được báo thù. Ba ví dụ sau đều ở ngôi hai số ít: + Ví dụ thứ nhắt về "cái tát": "Nếu ai vả má bên phải con, hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” Dĩ nhiên không thể hiểu lệnh mâu thuẫn này theo nghĩa đen. Chính Đức Giêsu cũng đã không giơ má khác cho tên đầy tớ tát tai. Ngài hỏi hắn: "Nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, sao anh lại tát tôi?" (Gioan 18,23). Như vậy, đứng trước kẻ gây hấn, người theo Chúa để có một hành vi vừa thách thức vừa làm cho kẻ địch hết chống trả. + ví dụ thứ hai về người môn đệ bị người khác có ý định đưa ra tòa và người đó muốn lấy áo trong (tưnique) người môn đệ làm vật thế chấp, nghĩa là áo lót. Đức Giêsu chủ trương: "Hãy để cho nó lấy cả áo ngoài nữa". Trong khi đó, theo Luật, áo ngoài và áo trong là của không thể sang nhượng được của người nghèo; chiếm hữu chúng là xâm phạm đến chính Thiên Chúa (coi Xh 22, 25-26). Khi để bị trần trụi đến cho đi cả áo theo gương Thầy mình, các Kitô hữu biết rằng sự khó nghèo như vậy, họ là những kẻ chiến thắng, bởi vì họ sẽ được lòng thương xót của Thiên Chúa bao bọc. + Ví dụ sau cùng là ví dụ về sự "trưng tập", thường được quân đội và các viên chức chánh quyền Rôma dùng để làm việc công ích (một hình thức lao dịch thời đó). Đức Giêsu còn nói thêm. "nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm". Ngoài bài giảng trên núi, thánh sử Mátthêu chỉ dùng động từ "trưng tập" một lần khác khi quân lính trưng tập Sinon thành Xyrênê, một dân ngoại, lúc đó tượng trưng cho tất cả các thế hệ môn đệ chấp nhận thập giá Đức Kitô. + Minh họa thứ năm và cuối cùng nói đến yêu thương kẻ thù. Sách Lêvi viết: "Ngươi sẽ yêu tha nhân như chính mình" (19,18). Như vậy điều này mời gọi con cái Israel sống với nhau bằng tình yêu huynh đệ loại bỏ mọi hận thù oán ghét. Nhưng các Thầy rabbi thuộc những nhóm khác nhau tranh luận mãi về quan niệm tha nhân và nhiều người đã cho nó một nghĩa hạn hẹp: tha nhân là người mà ta có quan hệ tốt đẹp; phân biệt với kẻ thù. Từ đó mà có câu Phúc âm: ‘Anh sẽ ghét kẻ thù’ tuy câu này không có trong Luật, nhưng biểu lộ khá đúng ý nghĩ của rất nhiều người. Ngược lại với tình yêu có tính cách chọn lựa đối tượng này, Đức Giêsu nói đến một tình yêu phổ quát vượt mọi biên giới, đến cả kẻ thù và người bách hại, theo Ngài, đòi hỏi này đặt nền tảng trên cách đối xử của chính Thiên Chúa với mọi người, "Kẻ xấu cũng như kẻ tốt", người công chính cũng như kẻ bất chính". 2. Hệ tại theo gương Chúa Cha: Câu 48 kết luận toàn thể phần này: “Vậy anh em hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng thiện”. Như vậy, theo gương Cha và Con của ngài Đức Giêsu, đó là nền tảng và mục đích của Luật mới này. Là người môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta được mời gọi sống như Con, với Ngài và trong Ngài. Cái mới triệt để của Bài giảng trên núi chính là vậy, chứ không phải trong một giới răn đặc biệt nào. Cl. Tassin chú giải: "Tính từ “hoàn thiện” tóm tắt ý tưởng về sự công chính hơn (các ký lục và biệt phái) ở câu 20, và sự hoàn thiện này chính là noi theo hành động của Thiên Chúa. Đạo Do Thái đã hiểu "những công việc bác ái xót thương" như những hành vi mà chính Thiên Chúa đã làm gương. Và Hội đường đã chú giải sách Lêvi 22, 28 bằng ngạn ngữ sau: “Như Ta thương xót trên trời thế nào, dưới đất các con cũng hãy thương xót như vậy" Điều này được Luca trình bày bằng những từ như sau: "Hãy xót thương như Cha các con là Đấng xót thương" (6,36). nếu Mátthêu thích tĩnh từ "hoàn thiện" hơn, là vì theo Ngài, lòng thương xót đạt tới mức yêu thương kẻ thù chính là hoàn thiện được Thiên Chúa trông đợi nơi những người của Ngài. Những ai muốn rập theo khuôn mẫu Chúa thì cậy vào Đức Giêsu. Con chí thiết của Thiên Chúa, ngài trao cho các chìa khóa bí mật này". ("Phúc âm Matthêu”, Centurion, 1991, tr. 69-70). BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Bẻ gãy vòng vây bạo lực”: (Đức cha L. Daloz, trong "Nước Trời đến gần", Desche de Brouwer, tr. 58-60). Đức Giêsu lấy lại qui định của Luật: anh em đã nghe dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng... đối với chúng ta điều đó dường như biểu lộ một sự trả thù nghiệt ngã, nhưng trong thực tế, nó lại điều hòa bạo lực và giới hạn ham muốn. Trong một xã hội mà mỗi người thường là quan tòa cho chính mình, đó là một loại luật "tương xứng" trong sự đền trả lại sự xúc phạm, người ta có thể trả thù tới mức độ, không được vượt quá. Trong các quốc gia của chúng ta ngày nay, mỗi người không thể làm quan toà cho chính mình. Chúng ta đã có nhũng cơ quan cảnh sát và tư pháp là những cơ quan duy nhất có quyền bất và trừng phạt những kẻ phạm tội ác. Các hình phạt được xác định rõ bởi một bộ luật. Trong bộ luật này, người ta tìm thấy lại nguyên tắc tương xứng. Như vậy phạm nhân thoát khỏi ham muốn trả thù cá nhâ, người ta lưu ý đến hoàn cảnh, không chỉ tìm cách trấn áp và trừng phạt, mà còn nhằm tìm cách chữa trị và nâng đỡ. Dĩ nhiên, chúng ta ai cũng biết rằng hệ thống tư pháp có những điểm yếu, những trì tre, những sai lầm hay những "vết chàm". Nhưng dẫu sao nó vẫn là một đảm bảo về sự tiến bộ của nhân loại, chứ trong khung cảnh xã hội và pháp lý này mà hôm nay chúng ta đón nhận Lời Đức Giêsu. Và ngay cả ở trong khung cảnh này, Ngài vẫn kiện toàn Luật bằng cách làm cho nó đi sâu vào tâm hồn con người. Có khi ý muốn trả thù không còn biểu lộ qua hành động nữa nhưng vẫn còn bị khích động và khơi gợi lên trong công luận qua các hành vi bạo lực và các vụ kiện. Không dễ gì chống lại được tình cảm tập thể, nhất là khi nó được chia sẻ bởi một đám đông những khán giả trong một thế giới mà tất cả mọi sự đều bị các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi. Đàng khác chúng ta dễ ham muốn kêu gọi trả thù và trừng phạt khi chính chúng ta không phải chịu trách nhiệm. Trong xứ sở chúng ta, ngành tư pháp có sứ mạng xã hội vừa bảo vệ, giáo dục vừa làm gương; nhưng cũng vừa sửa đổi, chữa trị vừa giúp tái hội nhập. Lời Đức Giêsu dạy đừng chống cự người ác không cản trở cũng không gò bó sứ mạng này Nhưng còn có một cái gì khác hơn là những biện pháp cần thiết để bảo đảm an an ninh xã hội, một cái gì khác hơn là sự hận thù, ghen ghét, báo án. Đức Giêsu kêu gọi đến cái tốt nhất nơi con người, đôi khi đến cả sự anh dũng để có được một con út thứ tha; chúng tôi có thể làm chứng các Kitô hữu sự tha thứ này cách công khai! Đức Giêsu không cấm chúng ta đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Khi bị viên vệ binh tát tai, chính Ngài đã đòi anh ta giải thích lý do tại sao anh ta hành động như vậy: nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào; nếu tôi nói đúng, thì sao lại tát tôi”. (Ga 18, 23). Nhưng nơi vườn Cây dầu Ngài cho phép Phêrô rút kiếm bảo vệ mình và cũng vì Chúa Cha sai các đạo binh thiên thần đến che chở Ngài để mình bị trấn lột, tát tai, đánh đập và đội triều thiên bằng mũ gai. Ngài không hài lòng với lời kêu gọi đừng lấy oán báo oán, lấy lành thắng dữ, lấy tình yêu thắng hận thù. Ngài còn tỏ ra chính mình là con đường thực hiện lời tiên tri về người đầy tớ đau khổ đã không quay lưng, quay mặt tránh những kẻ ra sức làm khổ mình. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta sinh sống và theo cách thế của mình, Ngài kêu mời chúng ta đừng đi vào chu kỳ bạo lực, nhưng hãy có đủ sức mạnh tinh thần để đặt một Lôgíc mới trong mối tương quan giữa con người với nhau. 2. “Thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho ta” “Nếu thực sự thứ tha của Thiên Chúa làm tôi hiện hữu, nếu Ngài ban cho tôi tình yêu Thiên Chúa và khả năng yêu mến, làm sao tôi lại không thể hoán chuyển tình yêu thành thứ tha theo chừng mực, mà tôi có thể làm được đối với những ai đã phản bội, chối bỏ và làm tổn thương tôi? Hoặc tôi không là Kitô hữu và rơi vào lối sống theo câu ngạn ngữ cổ: “mắt đền mắt, răng đền răng”, hoặc tôi muốn sống như là một Kitô hữu, thì lập tức tôi phải nhớ điều loan báo cốt yếu nhất của đức tin: tất cả anh em, đều là những tội nhân đã được thứ tha, tất cả anh em đều là nhũng đứa con của lòng thương xót. Nếu anh em muốn là những Kitô thực sự sống đạo, điều thực hiện đầu tiên, cơ bản nhất, chính là thực hành điều Thiên Chúa đã sống đối với anh em, điều mà Đúc Giêsu đã làm vào lúc Ngài sắp qua đời. Đó là thứ tha. Đó là cách thế duy nhất em làm chứng cho mọi người sự tha thứ ta đã lãnh nhận và nó được trao ban cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên sự tha thứ như vậy không thể là sự quá ngây thơ, càng không thể là sự cổ võ cho sự dữ. Để thực sự là tha thứ, nó chỉ có thể phát xuất từ một lương tâm không có ảo tưởng nào về những ác tâm, ô nhục, tội ác của thế gian nào và của lịch sử con người. Tuy nhiên, vượt lên trên không bất hạnh mà người Kitô hữu dấn thân đấu tranh nhân danh công lý, họ còn làm chứng về niềm hy vọng Thiên Chúa đặt sẵn nơi mỗi người, dù là những kẻ phạm tội, nhơ nhớp nhất Như vậy, Thiên Chúa mong muốn tất cả hoán đổi ác tâm và hận thù thành tình yêu. Điều này thật đúng, vì chúng ta chỉ là Kitô hữu do niềm tin và hy vọng như vậy, và chúng ta đang cố gắng hết sức mình sống niềm tin là hy vọng đó nhờ ơn Chúa” 3. “Yêu thương mọi người vì Thiên Chúa yêu thương họ” (Martin-Luther King, trong “Chỉ có một cuộc cách mạng”. Casterman, 1968, tr. 108-109) Trong Tân ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu hơn Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ, chính là ý nghĩa Lời Đức Giêsu Anh em hãy yêu thương kẻ thù. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi, thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đúc Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”. |