Chúa Nhật VI thường niên - Năm A
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT VÀ ĐỨC CÔNG CHÍNH MỚI
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1. “Làm trọn Lề luật" (5, 17) có nghĩa là gì? Phải hiểu thế nào các "tương phản" (5, 21. 27. 31. 33. 38. 43) sau khi đọc đoạn khai triển về việc làm trọn Lề luật (5, 17- 20)? Chúa Giêsu kiện toàn “điều đã được nói cho người xư'a "ở điểm nào? Đâu là sự “dư dật" của đức công chính được đề ra (c. 20)?

2. Hãy nêu lên trong Tin Mừng những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người không đến bãi bỏ Lề luật: ví dụ đối với Đền Thờ, việc nộp thuế, lễ Vượt Qua, việc chúc lành các bữa ăn, kinh nguyện hằng ngày, chính quyền, việc hành hương Giêrusalem v.v...

3. Theo nghĩa nào Chúa Giêsu đã giải phóng Lề luật khỏi các khoản thêm thắt của Biệt phái đã khiến mục đích chân chính của Lề luật bị đổi hướng?

4. Có thể ly dị vợ trong trường hợp gian dâm không? Khoản luật này có nghĩa gì? Phải chăng đây là một luật trừ?

*******

1. Sau khi kêu gọi môn đồ và dân chúng, trong các câu dẫn nhập vào Diễn từ, bằng cách phác họa cho họ thấy dung mạo con cái Nước Trời, Chúa Giêsu lập tức đề phòng một ngộ nhận: điều Người loan báo có thể xem như bãi bỏ Cựu ước (được gọi dưới cái tên Lề luật - tức bộ Ngũ Thư - và các Ngôn sứ tức là toàn thể các sách linh ứng khác), nhưng kỳ thực là không: Người không đến bãi bỏ, song để làm trọn, kiện toàn. Việc hoàn tất ấy nhắm lới Thánh Kinh xét như là tuyển tập các sấm ngôn mà Chúa Kitô đến thực hiện, và xét như là tuyển tập các luật lệ diễn tả thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Kitô đến kiện toàn.

2. Một trong các bản tuyên tín cổ xưa nhất, có lẽ từ khoảng năm 35- 40, quả quyết như sau: "Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Thánh Kinh. Người đã bị chôn cất, đã sống lại ngày thứ ba, theo lời Thánh kinh" (1Cr 15, 3- 5). Niềm xác tín Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy đã ăn sâu vào tâm thức Kitô hữu. Nó cấu thành niềm tin của cộng đoàn nguyên thủy, và là trọng tâm của việc họ hiểu Lời Chúa. Nhờ việc hoàn tất này, Giáo Hội xuất hiện như là đích điểm của chuyển động lịch sử mà Thiên Chúa đã lèo lái, và Chúa Kitô tỏ ra như là trung tâm bảo đảm sự duy nhất của Thánh Kinh. Người là Đấng "đã được nói đến trong Lề luật Môisen và các ngôn sứ ” (Ga 1, 45): Tin lời Thánh Kinh tức là tin và Người: Vì chính về Ta mà Môisen đã viết" (Ga 5, 45). Và suốt cuốn Tin Mừng, Mt đã chú tâm làm nổi bật việc Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy.

3. Nhưng nếu Chúa Giêsu đến hoàn tất các sấm ngôn, thì Người cũng đến trình bày một cái nhìn đúng đắn hơn về tinh thần được tiềm ẩn dưới các giới lệnh chính thức của Lề luật. Ngoài ra, công cuộc kiện toàn này còn có đặc điểm là tinh thần Tin Mừng nay thấm nhập vào pháp chế cổ xưa, là cái có mục đích chuẩn bị sự nẩy nở của Tin Mừng. Như nụ hoa kết liễu và biến mất trong đóa hoa, Cựu ước cũng nở ra trong Tân ước. Thay cho văn tự ngột ngạt đè nén, này đây tinh thần đến giải phóng con người.

Các kiểu so sánh Chúa Giêsu dùng - không một chấm một phết của Lề luật sẽ bị biến mất - thoạt nhìn tưởng là có nghĩa duy trì hoàn toàn bộ luật Cựu ước bao lâu còn vũ trụ (“trời và đất", thành ngữ cổ điển). Nhưng các ví dụ đưa ra đi ngược lại và cho thấy Người không nhằn bảo tồn chất thể tính của các giới lệnh. Người chỉ duy trì chúng bằng cách vượt trên chúng. Không phải bằng cách chồng chất thêm điều khoản, như nhóm Biệt phái và tiến sĩ luật đã làm, song là đưa vào một não trạng có tính cách tôn giáo hơn, khả dĩ làm nổ tung các khuôn khổ cũ (9, 16- 17) mà vẫn không hủy diệt các giới răn. Đây chẳng phải là việc phá hủy, song là đổi mới canh tân. Toàn bộ đóng góp tích cực về tôn giáo của Cựu ước đều được duy trì, gạn lọc khỏi các thể chế lỗi thời và thối nát.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Không một chấm một phết": Phải giải thích câu này trong cái nhìn toàn bộ Tin Mừng Mt. Nếu Chúa Giêsu muốn đề nghị ở đây một sự tuân hành mặt chữ Lề luật, Người sẽ trực tiếp mâu thuẫn với thái độ của chính mình, vì xem ra Người đã chẳng giữ đúng các khoản luật nhỏ nhặt của Cựu ước, nhất là khoản về thu nhập và tinh sạch theo lễ nghi (15,3; 19,17; 22, 36. 38. 40 v.v...), hơn nữa Người sẽ mâu thuẫn với lời giảng huấn của mình, vì trong các ví dụ sau đó, Người sửa đổi Lề luật trên nhiều điểm quan trọng như khoản luật về ly dị của Đnl 24,1. Do đấy phải xem thành ngữ của Chúa Giêsu là một kiểu nói Do thái, đặc biệt của các giáo sĩ, nhằm làm nổi bật uy quyền tuyệt đối và trường tồn của Lề luật, nhưng là một Lề luật đã được giải thích lại, được gạn lọc khỏi các yếu tố lỗi thời, được kiện toàn nhờ tinh thần tình yêu sinh dộng nó. Thứ Lề luật đã được chú giải lại như thế phù hợp với chủ ý nguyên thủy của Thiên Chúa, là Đấng đã ban nó cho Môisen đầu tiên. Chính trong chiều hướng ấy mà ta có thể xác quyết tính cách bền vững của Lề luật: trời đất sẽ qua đi nhưng thánh ý Thiên Chúa sẽ không qua bao giờ.

"Một trong những điều răn nhỏ hèn nhất": Một lần nữa, đây không phải là bắt chước việc giữ luật theo mặt chữ của Biệt phái. Khi đã lưu ý đến văn mạch của Diễn từ, chớ quên rằng từ đây Luật chẳng phải là luật Môisen đối nghịch với tinh thần mới, nhưng là Luật Thiên Chúa với sự viên mãn mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Nên so với Lề luật diễn tả thánh ý Chúa Cha và được Chúa Giêsu giải thích lại như thế, thì các điều răn phụ tùy cũng có giá trị riêng của chúng. Ở đây nhấn mạnh đến việc thực hành Luật Tin Mừng, có lẽ vì muốn ám chỉ tới nhóm Biệt phái "nói mà không làm" (23, 3). Lối giải thích này được xác nhận bởi cách đặt tiếp liên các động từ ("phạm - dạy... làm- dạy"); đặt việc vi phạm hay thi hành điều luật trước, và việc dạy dỗ ra sau trong cả hai lần.

Câu 20 phát biểu chủ đề của những điều sẽ nói: "Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái...". Lời tuyên bố long trọng này sau đấy được minh giải qua 6 ví dụ cụ thể, trong đó Chúa Giêsu đối chiếu lời Người tái giải thích Lề luật với giáo huấn chính thức của Do thái giáo. Tất cả các ví dụ đều được kết cấu theo một kiểu như nhau: trích dẫn một điều luật đoạn đề ra các yêu sách mới ("Ta bảo các ngươi..."). Sáu ví dụ này là: giết người (cc.21- 26), ngoại tình (cc. 27- 30), ly dị cùng tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (cc.31- 32), thề thốt (cc.33- 37), báo thù (cc.38- 42) và yêu kẻ thù nghịch (cc.43-47). Trong cả 6, sự công chính mà Chúa Giêsu rao giảng tỏ bày ra một cách sâu xa và hiện thực.

Từ luật cấm giết người (c. 21), Chúa Giêsu đi qua các yêu sách của bác ái: không nhục mạ tha nhân (c.22), song hãy làm hòa với họ. Đối với Mt, tính cách mới mẻ của Kitô giáo phát xuất từ trực giác căn bản Chúa Giêsu đã mặc khải cho môn đồ: đó là sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Và sự kiện chủ yếu này đưa tới một hệ luận quan trọng: mọi người là anh em. Trước đó Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm thứ nhất, đã luôn luôn quy chiếu về Thiên Chúa như là Cha từ đầu đến cuối Diễn từ. Ở đây Người chạm tới điểm 2, khi dùng chữ anh em 4 lần trong các câu 22- 24.

Trong mấy câu 22-24, chở đi tìm các phân biệt theo kiểu giải nghi học xa lạ với não trạng của Chúa Giêsu. Thực ra, Người chỉ muốn sử dụng những phạm trù pháp lý của môi trường mình và kiểu nói của các giáo sĩ, để kết án sự giận hờn như là một hành động giết người, dù nó xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa. (Về ý nghĩa các chữ "đồ ngốc", "đồ khùng", "tòa án", "công nghị", xin xem chú thích của BJ)

"Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ": Câu này không rõ ràng mấy về chi tiết. Có thể là người sắp dâng hy lễ đã làm phật lòng tha nhân, hay tha nhân đã tức giận người dâng lễ (có duyên cớ hay không, bản văn chẳng xác định gì). Giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn, vì người dâng lễ đã ở bên bàn thờ khi sực nhớ lại: điều này minh chứng cơn giận không ở trong lòng anh ta nhưng cái đó chẳng quan trọng; điều đáng kể là trong hai trường hợp, thiện ích của sự bình an đòi hỏi ta phải tìm cách giải hòa với nhau, trước khi trình diện trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự tế nhị của lòng bác ái Chúa Giêsu mà ta không mấy thích, vì nhiều khi mình là đối tượng của một sự hờn oán bất công. Câu tiếp theo (c. 25) trình bày một dụ ngôn tiềm ẩn nhằm cụ thể hóa lời giảng huấn đi trước: cũng như người ta tìm cách thỏa thuận với chủ nợ để khỏi gặp cảnh khốn khổ hơn, thì cũng vậy phải tìm cách giải hòa gấp với nhau để tránh thoát hình phạt của Thiên Chúa. Ý tưởng sau chỉ được hiểu ngầm thôi, tuy nhiên cung cách long trọng của c. 26 gợi lên điều đó.

Về vấn đề ngoại tình (cc. 27- 30), tính cách triệt để của Lề luật được đặc biệt nhấn mạnh: người Kitô hữu chẳng những sẽ không phá vỡ tổ ấm của anh em mình qua việc lấy vợ anh em, mà còn không được để phát sinh trong lòng mình ý muốn phá vỡ đó. Sự toàn vẹn của tổ ấm gia đình phải vượt lên ngay cả trên sự toàn vẹn thể lý, là cái gì rất quý đối với con người, vì con mắt giúp đi đứng, còn tay chân lại giúp hành động. Đây là kiểu nói đại ngôn cho thấy phải coi trọng đến độ nào yêu sách tuyệt đối của Lề luật. Truyền thống giáo sĩ cũng đi theo chiều hướng ấy.

"Trừ phi là nố dâm bôn": Câu này (được Mt 19, 9; Mc 10, 11-12; Lc 16,18 bổ túc) không phải là dễ hiểu, vì nó nại đến nhiều ý niệm pháp lý mà ta chẳng còn quán triệt được ý nghĩa đích xác. Dù sao đại ý vẫn rõ ràng: sự bao che của luật Môisen, được bảo đảm nhờ ly thư, trở nên thất liệu trong lời Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật. Kết luận tổng quát này dựa trên các lý chứng sau đây:

1. Toàn bộ Diễn từ cho thấy Chúa Giêsu muốn vượt quá Lề luật cho đến bây giờ hãy còn hiệu lực. Thế mà trong trường hợp hôn nhân, dù công nhận sự vô hạnh (gian dâm) như là luật trừ, Người vẫn không đi xa hơn mấy lập trường của Shammai, một giáo sĩ Do thái đương thời.

2. Trong Mt 5-7, cũng như các chỗ khác, ta chẳng hề thấy Mt phát biểu một sự chế hạn nào đó khi ghi lại một huấn thị luân lý của Chúa Giêsu; thực vậy, các bản văn ấy cho thấy Người rõ ràng không muốn sa vào lối phân biệt các nố đặc biệt như các giáo sĩ thường làm, mà chỉ nhắc lại cách đại cương trật tự sáng tạo Thiên Chúa đã thiết lập.

3. Mc và Lc không nói đến điều khoản này. Khó mà nghĩ rằng hai ông đâ bỏ qua một lời tuyên bố thật sự biến đổi nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân.

4. 1Cr 7, 10-11, lời giải thích xưa nhất về câu nói của Chúa mà Phaolô cũng biết, xác nhận luật cấm tuyệt đối không được ly dị (tuy nhiên câu 11 nói đến trường hợp ly thân mà không tái giá).

Do đó không thể chủ trương rằng trong tâm trí Chúa Giêsu, việc ngoại tình làm thành một luật trừ, như người Tin lành và Chính thống giáo vẫn kết luận từ điều khoản đó (tuy nhiên có nhiều thần học gia Tin lành mới đây đã chấp nhận cách đại cương lời kết luận của chúng tôi). Thế nhưng các nhận xét trên đây không phải là lời chú giải điều khoản của Mt. Muốn tìm hiểu, xin khảo cứu các sách chú giải chuyên môn và các bài đăng trong tạp chí.

"Ta bảo các ngươi đừng thề thốt chi cả": Lời nghiêm cấm này xem ra tuyệt đối đến nỗi nhiều giáo phụ đã lên án mọi sự thề hứa, cũng như có nhiều giáo phái Tin lành từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Để không lại ý kiến họ, ta có thể trưng ra sự kiện thánh Phaolô (Rm 1, 9; 2 Cr 1, 23; 11,31; Ga 11, 20; Pl 1,8 ) và việc thực hành trong Giáo Hội: Giáo Hội không những cho phép thề trước các tòa án, mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (vd thề chống Duy tân chủ nghĩa). Điều đó giả thiết lời nghiêm cấm của Chúa Giêsu không có tính cách tuyệt đối. Người muốn nói (thánh Agustinô) trong lời thề tự nó không phải là một điều tốt. Nó phải biến mất khỏi một cộng đoàn xã hội được tổ chức theo tư tưởng của Chúa Giêsu. Chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Để quán triệt tư tưởng của Chúa Giêsu, ta phải xét nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Các thính giả của Chúa Giêsu là những người không phải bận tâm về tính cách chính đáng trên lý thuyết của một lời thề quy định bới quyền bính dân sự hay tôn giáo. Họ sống trong một môi trường mà văn từ của Lề luật, theo lối chú giải của Biệt phái, coi như đi đôi với một sự lạm dụng quá trắng trợn, với một sự biến đổi rõ ràng tâm tình đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra một hướng đi quyết liệt, Người trình bày điều duy nhất phù hợp với danh dự của Thiên Chúa và phẩm giá con người, làm quy luật mà các môn đồ Người phải theo trong các hoàn cảnh sống thông thường. Nền tảng của quy luật thực tiễn này là: con người không được dùng lời mình để cam kết cái điều thuộc về Thiên Chúa; đó sẽ là một toan tính bắt Thiên Chúa phục vụ mình, một toan tính rõ ràng là vô ích phù phiếm, vì con người không thể thay đổi ngay cả màu sắc tóc mình, theo nghĩa là không thể làm mình trẻ hơn hay già hơn được.

KẾT LUẬN

Việc Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật luôn luôn được thực hiện trong cùng một chiều hướng: khi triệt để hóa Lề luật, vượt trên mọi toan tính phân tích từng nổ nhằm giảm thiểu yêu sách của nó, Người hoàn lại cho nó chiều hướng nguyên thủy là làm cho con người trở nên huynh đệ hơn, tôn trọng nhau hơn, trung thành hơn với các lời cam kết và tình yêu, ngay chính hơn đối với anh chị em mình.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Con người luôn luôn bị cám dỗ rơi vào não trạng nệ luật, là não trạng bao giờ cũng dễ dàng vì gây cho ta môi sự an lòng: ta vững tâm cho rằng mình sống đúng luật đối với Thiên Chúa và tha nhân, một khi làm tròn một quy luật nào đó. Nhưng Chúa Giêsu mời ta vượt qua các tính toán so đo ấy để đi vào bình diện tình yêu. Và mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.

2. Chúa Giêsu không chỉ hài lòng với việc chu tất hay kiêng cữ bên ngoài. Người đi tìm con người tận trong căn nguyên hành vi của họ, tận trong tư tưởng, ước muốn, ý hướng của họ: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn ngươi ".

3. Khi ban Thập điều cho Israel, Thiên Chúa đã dẫn Israel bước một bước dài trong quá trình tiến bộ về mặt luân lý: so sánh với luật rừng hay tình trạng man rợ, luật Môisen tượng trưng cho một bước tiến đáng kể cho lương tâm con người. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng lưu ý đến sự yếu đuối của dân Israel và đến các phong tục hãy còn thô lậu của thời đại: như một nhà sư phạm khôn ngoan, Ngài đã thích ứng các yêu sách của Ngài với não trạng hãy còn thô lỗ của dân, chấp nhận nhượng bộ việc ly dị, trả thù v.v... Đó là thời kỳ thơ ấu của Israel, thời kỳ tập luyện. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tạo vật đến nỗi không muốn duy trì nó trong sự sống tầm thường. Vì thế Ngài đã sai phái Con Một Ngài để Người hoàn tất công trình Ngài và dẫn đưa con người đến tình yêu hoàn hảo. Đây là một sự liên tục đáng khâm phục trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.