Chúa Nhật IV Phục Sinh |
CỬA CHUỒNG CHIÊN |
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt |
"Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên". Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. "Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: "là một người chăn chiên": vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng. "Kẻ ấy gọi tên từng con". Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là "từng con bằng tên của nó". Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch "Kat onomat” là từng con một" (BJ) hoặc là "riêng từng con" (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi. "Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp": Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ. KẾT LUẬN Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy. Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG 1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu. Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel. 2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. "Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào", ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu. 3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy. 4) "Chiên Người, Người gọi từng con một". Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao? |