Chúa Nhật II Mùa Vọng - Năm A |
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA |
Lm Giuse Đinh lập Liễm |
A. DẪN NHẬP. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay cho thấy một vương quốc lý tưởng Đức Kitô thiết lập trên trần gian cho hết mọi người. Nhưng Ngài cũng cho biết là không phải ai cũng được vào đâu. Muốn vào thì phải chấp nhận và chu tòan một số những điều kiện. Thánh Gioan Tẩy giả được sai đến rao giảng cho dân chúng phép rửa sám hối và Tin mừng Nước Trời :”Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,1). Ông giới thiệu cho họ Đấng Thiên Sai sẽ đến và khuyến khích họ hãy dọn đường để chuẩn bị đón Ngài vì thời gian gấp rút :”Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi”(Mt 3,3). Theo thánh Gioan Tẩy giả, dọn đường chính là sám hối, là khử trừ mọi tội lỗi, canh tân đời sống và quay trở về với Chúa. Sám hối đây là một cuộc thay đổi tòan diện trong tư tưởng, trong hành động, trong việc làm, một hướng đi, một đời sống mới. Ta chỉ trở lại thật sự khi ta quyết định đổi cả não trạng, cả nguyên tắc cuộc sống và đem ra thực hành trong việc làm. Việc sám hối này phải được mọi người thực hiện vì ai cũng đã phạm tội; còn những ai nói mình không cần phải sám hối là những kẻ không biết con người thật của mình, chỉ là những người cố chấp đi sâu vào con đường tội lỗi. Theo thánh Phaolô trong bài đọc 2, sám hối cũng còn là phải đi đến với mọi người theo gương Đức Kitô đến trần gian để cứu hết mọi người. Hết mọi thành phần trong cộng đòan, cách riêng cộng đòan Rôma, phải đối xử tốt với nhau, phải nhất trí trong tình yêu thương, tránh mọi chia rẽ, phải biết thông cảm với nhau, không phân biệt họ là ai, giầu nghèo, sang hèn. Để mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta hãy thực hiện lời Chúa phán:”Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ…”. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 1. Bài đọc 1 : Is 11,1-10. Tiên tri Isaia xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên đang khi dân Do thái chán chường về những ông vua đang cai trị ï. Họ bỏ bê việc cai trị, chỉ lo vinh thân phì gia, làm cho xã hội xuống cấp trầm trọng : xã hội đầy dẫy những bất công, luân lý suy đồi, đời sống tôn giáo sa sút, nguội lạnh. Trước cái tâm trạng thất vọng của mọi người, tiên tri Isaia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ sai Đấng Messia đến thiết lập Nước Thiên Chúa. Bằng những lời lẽ trữ tình, ông đã mô tả con người Đấng Messia với những đức tính rất đặc biệt và phong phú. Đấng ấy sẽ sinh ra từ gốc tổ Giesse là cha của Đavít. Ngài sẽ xét xử công minh, bênh vực những kẻ hiền lành và trị tội những kẻ áp bức. Trong nước mà Đấng Messia sẽ thiết lập, dân chúng sẽ được sống trong công bình và chân lý, trong hạnh phúc và trong hòa bình thịnh vượng. 2. Bài đọc 2 : Rm 15,4-9. Thánh Phaolô giới thiệu cho chúng ta : Đấng Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo trước, Đấng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng sẽ đến thiết lập Nước Thiên Chúa, đây chính là Giáo hội, Lúc ấy, cộng đòan tín hữu đầu tiên ở Rôma gồm nhiều người đến từ nhiều nơi khác nhau. Vì thế, khó mà thông cảm và giữ được mối đồàng tâm nhất trí với nhau. Do đó, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Rôma là những công dân trong Nước Chúa, hãy noi gương Đức Kitô – Đấng đến cứu chuộc mọi người không phân biệt họ là ai, giầu nghèo – mà thực hiện được tinh thần hiệp nhất là thông cảm với nhau, tiếp nhận nhau và phục vụ nhau trong tinh thần yêu thương. 3. Bài Tin mừng : Mt 3,1-12. Gioan Tẩy giả xuất hiện cùng thời với Đức Giêsu. Ngài cho dân chúng biết : Đấng Messia mà tiên tri Isaia loan báo cách đây 8 thế kỷ sắp đến rồi. Ngài lặp lại lời tiên tri Isaia đã loan báo xưa :”Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Theo ngài, dọn đường cho Chúa đến là sám hối, mà sám hối bằng hai cách : a) Phải từ bỏ tội lỗi, chính tội lỗi đã làm cho ta xa cách Chúa, để từ đó, chúng ta đã đi lạc đường, mà từ bỏ tội lối là quay trở về cùng Chúa. b) Phải làm việc lành cho xứng với lòng sám hối ấy. Thánh Gioan Tẩy giả đã làm gương trước về đời sống khắc khổ : ngài vào hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ngòai ra, hãy hạ mình khiêm nhường trước mặt Chúa, nhận mình là người tội lỗi, chớ tự phụ cho mình là con cháu Abraham mà cứng lòng. C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Anh em hãy sám hối. I. HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA. 1. Lời rao giảng của ông Gioan Tẩy giả. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu đã viết :”Hồi ấy, ông Gioan đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng:”Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1). Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong hoang địa mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi ? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới có kẻ hưởng ứng, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ ? Thế nhưng lời hô của ngài vẫn được người ta hưởng ứng vì “Hữu xạ tự nhiên hương” chăng ? Có lẽ lý do chính là ngài chỉ nói sau khi đã làm, hay là đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói. Quả thực, chính Gioan đã ăn năn sám hối trước, ngài đã vào trong hoang địa để ăn chay hãm mình. Trong những năm tháng ở đây, ngài đã thực sự ăn năn và sống với Chúa mỗi ngày. Những ngày tháng cô đơn, buồn tẻ của hoang địa đã tinh luyện ngài thành con người hữu ích và hữu dụng cho Nước Trời. Chính kinh nghiệm đời sống khắc khổ của hoang địa đã làm ngài trưởng thành và kinh nghiệm mà hướng dẫn được người khác. Bí quyết thành công của đời ngài là làm rồi hãy nói, việc làm không mâu thuẫn với lời nói và lời nói không mâu thuẫn với việc làm. Đó là bí quyết để sống và truyền sức sống sang cho người khác. 2. Lời rao giảng được hưởng ứng. Tin mừng còn cho biết tiếp:”Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giorđan, kéo đến với ông”(Mt 3,5). Điều này chứng tỏ người ta nhiệt liệt hưởng ứng lời rao giảng của ông Gioan. Chúng ta có thể đưa ra hai lý do làm cho lời rao giảng của ông Gioan được đón nhận một cách tích cực : Sự vắng bóng của tiên tri một thời gian dài và tình cảnh bi đát của người Do thái. a) Sự vắng bóng các tiên tri. Sự xuất hiện của Gioan giống như tiếng nói của Thiên Chúa thình lình vang lên. Lúc bấy giờ người Do thái buồn bã nghĩ rằng tiếng nói của các tiên tri không còn nữa. Trải qua 400 năm không còn tiên tri nào, suốt 4 thế kỳ dài đằng đẵng, tiếng nói của tiên tri hòan tòan yên lặng. Nhưng trong ông Gioan tiếng nói tiên tri lại đang vang lên. Vậy đặc diểm của sứ điệp Gioan rao giảng là gỉ ? Trong tất cả các lời rao giảng của Gioan, điều đòi hỏi cơ bản là : Sám hối. Đó cũng là sứ điệp căn bản của Đức Giêsu :”Các ngươi hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. b) Tình cảnh bi đát của người Do thái. Sứ điệp đã làm cho dân chúng hài lòng muốn nghe, vì từ bao nhiêu thế kỷ, họ bị đặt dưới ách thống trị của các quyền lực ngọai bang là người Ba tư, người Ai cập, người Syria, và người La mã. Mặc dầu bị ức hiếp, dân chúng vẫn hy vọng, Chúa sẽ không bỏ rơi họ. Họ mong đợi một anh hùng giải phóng dân tộc, mong đợi một kỷ nguyên mới. Họ mong đợi Đấng Cứu thế sẽ đến. Đấng Cứu thế họ tin là một người lỗi lạc, siêu quần bạt chúng. Ngài sẽ phục hưng nền độc lập quốc gia, sẽ mở rộng bờ cõi, và đó là kỷ nguyên hòa bình hạnh phúc. Đó là thời đại vàng son, thời đại vô cùng phồn thịnh về vật chất cũng như tinh thần. Tóm lại, uy tín của Gioan đã lan rộng khắp vùng. Điệp khúc của Gioan rao giảng là hãy sửa đổi đời sống để đón Chúa đến. Sử gia Joseph Flavius đã ghi rằng :”Gioan có ảnh hưởng sâu đậm trên quần chúng, đến nỗi họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì ông răn bảo”. Hết mọi hạng người đến gặp ông để xin ông chỉ dạy cách sống. 3. Lời rao giảng bị từ chối. Trong số những người đến với ông, theo thánh Matthêu, cũng có cả những người biệt phái và những người saducêu đến chịu phép rửa rất đông. Tuy hòan tòan đối lập nhau, hai nhóm tôn giáo này cũng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giorđan theo lời kêu gọi của ông, cũng như chẳng bao lâu sau, họ cùng liên minh với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu. Thấy họ là những người giả hình, có ý đồ xấu, Gioan đã thẳng thừng cảnh cáo họ :”Đừng tưởng có thể bảo mình rằng :”Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì, tôi nói cho các ông hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham, cho nên “hãy sinh hoa quả để chứùng tỏ lòng sám hối” vì “cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. II. DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA LÀ SÁM HỐI. 1. Sám hối là gì ? Từ ngữ Do thái dùng để chỉ sự sám hối có ý nghĩa sâu sắc. Đó là danh từ của động từ có nghĩa là “quay lại”. Sám hối là từ bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý của tòan dân tộc hoặc của cá nhân. Học giả Monteflore đã viết:”Đối với các rabbi, bản chất của sám hối là ở chỗ hòan tòan thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”. Maimonide, một học giả Do thái danh tiếng trong thời trung cổ, định nghĩa sự sám hối như sau : “Sám hối là gì ? Là tội nhân lìa bỏ tội và khai trừ nó ra khỏi tư tưởng mình, hòan tòan quyết định trong tâm trí sẽ không tái phạm nữa như có lời chép rằng :”Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng của nó”. Sám hối, theo tiếng Hy lạp là “Metanoia” có nghĩa là “thay đổi” = meta… não trạng = noia. Như vậy sám hối có nghĩa là sự đổi mới của con người từ trong con người, từ trong tâm hồn, biểu lộ qua ngôn ngữ và hành vi. Không phải chỉ như người bộ hành xoay mặt ngó lui thấy mình đi lầm đường rồi thôi, mà phải đi trở lại để đi vào đúng con đường chính. Sám hối không phải chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo hòang đầu tiên thay mặt Hội thánh bầy tỏ lòng sám hối :”Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi xin anh chị em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức Sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000. 2. Những ai cần phải sám hối ? Mọi người cần phải sám hối, không trừ ai vì mọi người đã phạm tội, mà phạm tội là đi lạc đường, đã lạc đường thì cần phải quay lại con đường chính. Quay trở lại con đường công chính là Sám hối. Sám hối đòi hỏi một cuộc đổi mới tòan diện. Sám hối bắt đầu bằng một tác động khiêm nhường, một việc nhận thức rằng mình mắc tội, và việc quyết định trở về với Chúa. Cái ngăn trở lớn cho việc sám hối là “không biết mình”. Điều kiện của sám hối là con người phải tự biết mình, biết rõ chân tướng con người của mình. Nhà hiền triết Socrate đã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même) vì không biết mình thì không tiến bộ được. Tục ngữ Việt nam cũng có câu :”Vô tri bất mộ:”: không biết thì không mến. Trong binh pháp của Tôn Tử, muốn chiến thắng được đối phương, người ta phải thực hiện lời khuyên của ông :”Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng” : biết mình biết người thì trăm trận trăm thắng. Biết mình có tội là khởi đầu của một sự tiến bộ, nếu không biết mình thì còn làm ăn gì được ! Vậy cần phải biết mình yếu đưối, hay sa ngã, cần phải ăn năn trở lại. Thánh Kinh nói :”Người lành thánh có thể sa ngã mỗi ngày 7 lần”(Cn 24,16). Nói khác đi, con người trở nên yếu đuối vì tội tổ tông và tội riêng mình, nên sa ngã là điều tất yếu, bình thường. Nhưng Thánh Kinh lại viết tiếp :”(Sau 7 lần sa ngã)người lành thánh ấy lại chỗi dậy ngay”(Cn 24,16). Đúng như tục ngữ Việt nam nói :”Không ai có thể nắm tay đến tối, gối đầu đến sáng được”. Truyện : Nhìn thấy mặt thật của mình.
|