Chúa Nhật II Mùa Vọng - Năm A
HÃY CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh

“Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”

Nếu chủ đề của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A tuần trước là “Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà của Thiên Chúa Giacóp”, mà “leo lên núi Chúa”, như bài chia sẻ tuần trước cho thấy, là “hãy loại trừ những việc làm tối tăm” theo lời khuyên của Thánh Phaolô trong bài đọc hai tuần trước, chúng ta mới có thể gặp được Chúa Kitô, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì lời kêu gọi của tiên tri Isaia trong bài đọc một tuần trước đã nên trọn nơi lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Căn cứ vào mối liên hệ sâu xa nơi hai lời kêu gọi hết sức tương hợp với nhau này, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, chúng ta có thể chuyển dịch ý nghĩa của hai lời mời gọi này như sau: “Hãy leo lên núi Chúa” tức là “hãy cải thiện đời sống”, và “tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” tức là “Triều đại Thiên Chúa đã đến”.

Thật vậy, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, theo tiến trình cứu độ, Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Chúa Kitô đến cứu thế, song theo ý nghĩa phụng vụ, Mùa Vọng là thời điểm cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Đấng đã thực sự đến trong thế gian và không ngừng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy Mùa Vọng của Giáo Hội Chúa Kitô cũng hướng về biến cố Chúa Kitô lại đến trong vinh quang. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm thần linh, có thể thực sự nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa Làm Người, cho dù Người có đang ở với mỗi người chúng ta bằng Thánh Sủng, và có ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người, nếu chúng ta không “leo lên núi Chúa”, tức không “cải thiện đời sống”. Bởi vì, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” ở trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất”, nơi chúng ta “thuộc về hạ giới” (Jn 8:23) không thể tới được, thậm chí không thể thấy được, nếu chúng ta không muốn hay không chịu khó “leo lên núi Chúa”. Thật vậy, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” đây là gì, nếu không phải là nhân tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người, một ngôi nhà không phải do tay người ta làm ra, mà là do chính Thiên Chúa, “là do Chúa Thánh Thần”, như thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse biết trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Tư Năm A Mùa Vọng hai tuần tới đây. Nếu “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ; bởi thế trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, như Phúc Âm Thánh Luca trình thuật ở đoạn 1 câu 35, thì quả thực “nhà của Thiên Chúa Giacóp”, một ngôi nhà đã được dựng lên bởi “quyền phép Đấng Tối Cao”, chính là ngôi nhà đã được xây cất ở trên ngọn của “một đỉnh núi cao nhất vượt trên các ngọn đồi”. Và nếu “trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” đây chính là Đấng, cũng theo lời thiên sứ cho biết ở Biến Cố Truyền Tin trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32-33: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô tận”, thì một khi “nhà của Thiên Chúa Giacóp” được xây cất trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất” bấy giờ cũng là lúc “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, như lời Gioan Tiền Hô loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay.

Thế nhưng, nếu thực sự “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, hay nếu Thiên Chúa Đã Làm Người, tại sao không ai trong dân Do Thái biết, không ai thấy, ngoại trừ một số rất hiếm, như tư tế Simêon và nữ tiên tri Anna như được Phúc Âm theo Thánh Luca thuật lại ở đoạn 2 câu 28-38? Phải chăng vì “nhà của Thiên Chúa Giacóp” này xây trên “đỉnh núi cao nhất”, hết sức khó thấy. Đúng thế, Thiên Chúa Nhập Thể là một mầu nhiệm, do đó, nếu không có ơn Chúa đặc biệt, con người không thể nào nhận ra Người, dù Người có thực sự ở giữa họ, như lời Tiền Hô Gioan khẳng định với dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Vậy mà tại sao Gioan Tiền Hô lại biết và loan báo cho dân chúng biết, trong khi chính ngài đã thẳng thắn tuyên bố với dân chúng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 31 rằng: “Thú thực, tôi không biết Người, mặc dù tôi đến lấy nước mà rửa để Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”? Trong khi tuyên bố “thú thực, tôi không biết Người” như thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tiền Hô lại nói rất rõ về thân phận và vai trò của “Đấng đến sau” mình. Về thân phận của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô tiết lộ: “Tôi lấy nước mà rửa cho các người hoán cải, nhưng Đấng đến sau tôi là Đấng quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người”; về vai trò của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô cũng đã nói rõ: “Người là Đấng sẽ rửa các người trong Thánh Thần và trong lửa… Người sẽ dọn sạch sân lúa của Người, thóc thì Người thu vào kho, còn rơm thì Người cho vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Quả thực Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô đã đến “rửa trong Thánh Thần và trong lửa”: Người đã “rửa trong Thánh Thần”, qua việc Người “thổi hơi” trên các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, để các vị “nhận lấy Thánh Thần”, như Phúc Âm theo Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 20 câu 22; và Người cũng đã “rửa trong lửa”, qua biến cố “những lưỡi như lửa xuất hiện tản ra đậu trên đầu mỗi một vị. Tất cả đều được đầy Thánh Thần. Các vị bắt đầu nói tiếng lạ và hiên ngang rao giảng theo Thần Linh thúc đẩy”, như được Thánh Ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở đoạn 2 câu 3.

Phúc Âm cho thấy khi Gioan Tiền Hô đang kêu gọi dân Do Thái “cải thiện đời sống” và làm phép rửa thống hối cho họ ngài chưa thực sự tận mắt thấy Đấng “tôi không biết”, thậm chí cho đến lúc thánh nhân làm phép rửa cho Người, và thấy được những dấu chứng tỏ và chứng thực về “Đấng đến sau” mình, như ngài cho biết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 2 câu 32-34: “Tôi đã thấy Thần Linh như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Người. Tuy nhiên, tôi không biết Người. Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống và đậu trên ai thì người ấy là Đấng rửa trong Thánh Thần’. Nay tôi đã tận mắt thấy và làm chứng ‘Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 3 câu 13 và 14, ngay trước khi Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô chịu phép rửa bởi ngài, thánh nhân hình như đã linh cảm được Người chính là “Đấng đến sau” mình rồi, nên thánh nhân đã từ chối làm phép rửa cho Người: “Tôi phải được Ngài rửa cho mới đúng, chứ đâu có chuyện Ngài lại đến xin tôi!”. Vấn đề ở đây là tại sao Gioan và chỉ có một mình Gioan bấy giờ linh cảm thấy Vị Thiên Chúa Làm Người trước khi làm phép rửa cho Người, và chẳng những nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người mà còn làm chứng cho Vị Thiên Chúa Làm Người này sau khi làm phép rửa cho Người, trong khi đó, đám dân chúng đông đảo đang kéo đến với thánh nhân, gồm có cả thành phần thông luật, thông Kinh Thánh, như phái Pharisiêu và Sađucê trong bài Phúc Âm hôm nay, không hề nhận ra Người?

Vẫn biết, nguyên do trước hết và trên hết khiến cho Gioan Tiền Hô có thể linh cảm thấy và nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người là vì, theo thánh nhân nói, như vừa được trích dẫn, “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi”, thế nhưng, Đấng sai thánh nhân đến “lấy nước mà làm phép rửa” đây là ai? Vào lúc nào? Tại đâu? Sao thánh nhân lại tin vào Đấng ấy? Không ai biết, và chính ngài cũng không tiết lộ một tí gì về những chi tiết này. Về vấn đề nguồn gốc sứ vụ của Gioan Tiền Hô đây cũng đã được Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần trưởng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 21 câu 24 thế này: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?” Nhưng họ không trả lời được, nói rõ hơn, họ không muốn trả lời, hay nói chính xác hơn, họ không dám trả lời, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cùng đoạn tiếp tục thuật lại như sau: “Nếu chúng ta đáp là bởi ‘thần linh’ thì hắn sẽ vặn chúng ta rằng ‘thế thì tại sao các người không tin vào phép rửa này?’ Bằng nếu chúng ta bảo bởi ‘loài người mà thôi’, chúng ta không thể nào lại không sợ dân chúng, vì toàn thể dân chúng đều coi Gioan như là một vị tiên tri vậy”. Đến đây, qua sự kiện thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ lập luận để giải đáp về nguồn gốc phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy được lý do chủ quan tại sao Gioan Tiền Hô có thể tự mình linh cảm thấy “Đấng đến sau” khi vừa thấy Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, trước khi thánh nhân nhận ra Người căn cứ vào chính mạc khải từ “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa”.

Thật vậy, nếu lý do dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân chúng là Hội Đồng Do Thái bấy giờ nói riêng không nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, cho dù họ đã tận tai nghe lời Người giảng dạy vô cùng khôn ngoan cũng như đã tận mắt chứng kiến các phép lạ Người làm, chỉ vì họ muốn chối bỏ sự thật, không muốn chấp nhận sự thật, thì lý do chủ quan khiến Gioan Tiền Hô cảm nhận được ngay Vị Thiên Chúa Làm Người, đó là vì thánh nhân đã sống trong sự thật và tìm kiếm sự thật. Do đó, cho dù “toàn thể dân chúng” có trọng vọng thánh nhân “như một vị tiên tri”, thậm chí tưởng ngài là “Đấng Thiên Sai” (xem Jn 1:25), thánh nhân đã thành thực tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Thiên Sai” (Jn 1:20). Vì sống trong sự thật như thế, nên có lần nghe thấy các môn đồ của mình nói đến sự kiện dân chúng kéo tới xin Chúa Giêsu làm phép rửa cho đông hơn thánh nhân (xem Jn 3:26), thánh nhân liền nói: “Ngài phải được nổi nang hơn còn tôi cần phải lu mờ đi” (Jn 3:30). Gioan Tiền Hô tự mình chẳng những đã sống trong sự thật như vậy, mà còn mạnh mẽ rao giảng sự thật và cương quyết làm chứng cho sự thật nữa. Thánh nhân đã mạnh mẽ rao giảng sự thật, ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay thuật lại, khi ngài lên tiếng khiển trách “nhiều người Pharisiêu và Sađucê đến xin chịu phép rửa: ‘Đừng có mà tự phụ cho rằng Abraham la cha của mình. Tôi bảo cho các người hay Thiên Chúa có thể biến chính những hòn đá này thành con cái Abraham cũng được… Cây nào không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quặng vào lửa”; chưa hết, thánh nhân chẳng những rao giảng mà còn hiên ngang “làm chứng cho sự thật” (Jn 5:33) nữa, ở chỗ, ngài đã lên tiếng phản đối việc hôn nhân bất chính của Hêrôđê và vì thế đã bị mất đầu, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 14, câu 4 và 11.

Vâng, cho dù Thiên Chúa Làm Người có thực sự tỏ mình ra, tỏ mình ra hoàn toàn nhất, đích thực nhất, hiển nhiên nhất nơi Con Người Giêsu Nazarét, và cho dù con người có được soi động cho biết những dấu hiệu đích thực để có thể chắc chắn nhận ra Ngài, nhận ra “Sự Thật”, chẳng hạn như trường hợp Gioan Tẩy Giả qua “Đấng đã sai (ngài) lấy nước mà làm phép rửa”, hay như trường hợp của thành phần lãnh đạo dân Do Thái trước vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho họ về ngồn gốc phép rửa của Gioan Tẩy Giả, tự mình con người vẫn cần phải thành tâm tìm kiếm sự thật và sống trong sự thật nữa mới có thể nhận ra Người. Vì Người đã quả quyết với Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tìm kiếm sự thật thì nghe thấy tiếng Tôi”. Cho dù thành phần tìm kiếm sự thật này chưa gặp được Người là chính “Sự Thật” (Jn 14:6), nơi họ cũng đã có sẵn tính chất là chiên của Người rồi, và bởi thế họ đã có khả năng làm chiên của Người nữa, khả năng nghe được tiếng chủ chiên của mình, khả năng nghe được “Sự Thật”, nhận biết “Sự Thật” khi được “Sự Thật” tỏ mình ra cho, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 27 và 16: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”; “Tôi còn những chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt cả chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Mùa Vọng chẳng những là thời điểm đợi trông Chúa Kitô đến lần thứ hai mà còn là thời điểm để Kitô hữu chúng ta cảm nghiệm được thực sự Chúa Kitô đã đến rồi và đang ở nơi mỗi một người chúng ta bằng Thánh Sủng cũng như ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế bằng Thần Linh của Người, và nếu muốn thực sự cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người này nơi mỗi người cũng như trong Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta cần phải như Gioan Tiền Hô sống trong sự thật, mà Sự Thật lại chính là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa Làm Người, vậy sống trong sự thật phải chăng là tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa thực sự đã Làm Người, và vì hoàn toàn tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa Làm Người như vậy, Kitô hữu chúng ta sẽ không dám sống ngược lại với Đường Lối Nhập Thể của Người là khiêm nhượng, thanh bần, phục vụ và chịu đựng khổ đau, tóm lại, chúng ta luôn phải biết “bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Thày” (Mt 16:24)?