Chúa Nhật Phục Sinh  - Năm A
XÁC NHẬN LÒNG TIN

McCarthy

Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN

Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.

Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.

Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.

Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16,14).

Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?

Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.

Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.

Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ

Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.

Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.

Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.

Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.

Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.

Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.

Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC

1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.

Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.

Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người”.

Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?

Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.

Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.

 

                   trang suy niệm hằng tu