Ở nước ta, hầu như mùa nào cũng có Tết. Mùa Xuân ngoài Tết Nguyên Đán còn có Tết Nguyên Tiêu, mùa Hạ có Tết Đoan Ngọ, mùa Đông có Tết Trùng Thập. Nhưng trong các lễ Tết đó thì trẻ con và cả người lớn háo hức nhất, chờ đón nhất vẫn là Tết Trung Thu. Trời tháng Tám trăng thanh gió mát, nhà nông nhàn nhã âu cũng kịp lúc để được thoải mái vui chơi; đây là dịp để bà dắt cháu, chị dắt em, bố dắt con…. cùng nhau ngắm cảnh thu tạo nên sự nhộn nhịp và ấm áp biết bao. Vào Rằm tháng Tám, trăng đẹp nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Tết trông trăng, phá cỗ ngày xưa vốn là Tết của tất cả mọi người, không riêng gì đối với trẻ em. Thời đó, đêm Trung Thu, mọi nhà đều mở cửa, ai cũng có thể đến thăm hỏi và trò chuyện cùng nhau, cùng ngắm trăng, ăn cỗ, tuy chỉ là vài món hoa quả, bánh trái đơn sơ nhưng nghĩa tình thật ấm áp. Tục múa Lân. Múa Lân hay còn gọi là múa Sư tử vào Tết Trung Thu là một tục lệ xuất xứ từ Trung Hoa có từ hàng ngàn năm trước. Thể theo sách Tàu thì "Kỳ" là tên con Sư tử đực, "Lân" là tên con Sư tử cái. Người ta không phân biệt chúng là đực hay cái nên gọi chung là Kỳ Lân. 
Theo dân gian, Kỳ Lân là con vật thần thoại huyền bí, mình hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng trên trán, lông trên lưng màu ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Đó là con vật rất hiền (còn gọi là nhân thú), không đạp lên cỏ cây, không làm hại vật sống. Kỳ Lân chỉ xuất hiện khi có Thánh nhân ra đời hoặc dưới thời thái bình thịnh trị. Như vậy trò múa Lân trong đêm Trung Thu tượng trưng cho sự xuất hiện của Kỳ Lân, cũng là sự cầu mong đất nước thái bình, thịnh trị, nhà nhà gặp nhiều may mắn. Bánh Trung Thu. Dịp Tết Trung Thu có rất nhiều loại bánh, nhưng phần lớn là bánh hình tròn tượng trưng cho mặt trăng và bánh hình vuông tượng trưng cho mặt đất.
Có nhiều truyền thuyết trong dân gian nói về sự ra đời của chiếc bánh Trung Thu, nổi lên trong những truyền thuyết đó là vào những năm cuối triều Nguyên (Trung Quốc giữa TK XIV), bọn thống trị phong kiến áp bức bóc lột nhân dân rất tàn khốc, khiến dân chúng bất bình và nuôi ý chí phản kháng mãnh liệt. Ít lâu sau, có vị thủ lĩnh là Chu Nguyên Chương tổ chức nông dân vùng lên khởi sự chống lại bè lũ phong kiến ngoại bang thống trị tàn bạo. Để có thể truyền tin và mệnh lệnh một cách bí mật, người ta đã làm những cái bánh hình tròn, trong có nhét một tờ giấy ước định thời gian khởi nghĩa là lúc trăng sáng nhất trong đêm Rằm tháng Tám. Những chiếc bánh Trung Thu được người ta chuyền cho nhau và trở thành một phương tiện liên lạc. Từ đó, tin tức về cuộc khởi nghĩa được truyền đi khắp nơi và cuộc khởi nghĩa đã thành công, đập tan sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến thống trị. Sau này, cứ vào ngày Rằm tháng Tám là người dân Trung Quốc lại làm bánh Trung Thu để kỷ niệm sự kiện này… Tuy có xuất xứ từ Trung Hoa nhưng khi sang Việt Nam, Tết Trung Thu đã không còn nguyên bản nữa mà được nhân dân ta tiếp nhận và chuyển đổi cho phù hợp như những giá trị văn hóa khác. Theo đó, Tết Trung Thu của người Việt mang nhiều điểm khác biệt so với Tết của người Hoa để rồi tạo nên một nét văn hóa riêng, phong tục riêng của cả một dân tộc - văn hóa dân tộc Việt. Trước hết, theo phong tục người Việt, vào ngày này bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Cũng chính từ đó mà mùa Thu với Tết Trung Thu thật là ấm áp, là dịp để mọi người nhớ đến nhau, dành tình yêu thương cho nhau và để rồi gần nhau hơn. Đây còn là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến của cha mẹ đối với mình. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khắng khít thêm. Một điểm khác nữa là, nếu như người Hoa hay tổ chức múa Lân trong dịp Tết Nguyên Đán thì người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư tử hay múa Lân trong dịp Tết Trung Thu...qua đó cho thấy đây không chỉ là văn hóa riêng, văn hóa đặc thù của Trung Hoa mà còn là văn hóa mang dấu ấn thuần Việt. Tết Trung Thu độc lập đầu tiên của các cháu. Cách mạng tháng Tám thành công, Tết Trung Thu đầu tiên của nước nhà độc lập, tuy rất bận nhưng Bác rất vui viết thư gửi tới các cháu ở khắp mọi miền đất nước: "Các cháu vui cười hớn hở, Bác Hồ cũng vui cười hớn hở. Các cháu biết vì sao? Một là vì Bác rất yêu mến các cháu; hai là vì Trung Thu năm ngoái, nước ta còn bị áp bức, các cháu còn là bầy nô lệ trẻ con mà Trung Thu năm nay nước ta đã được tự do và các cháu đã trở thành chủ nhân của một nước độc lập". Đêm Trung Thu năm đó được tổ chức rất trọng thể và vui vẻ tại bờ hồ Hoàn Kiếm. Dưới ánh điện lấp lánh, hàng ngàn trẻ em tay cầm đủ các loại đèn lồng đứng chật quanh hồ. Sau lễ chào cờ, một bạn thiếu nhi Hà Nội thay mặt các bạn nhỏ cả nước phát biểu, bày tỏ niềm sung sướng được trở thành công dân nhỏ tuổi của nước độc lập. Bác Trần Huy Liệu thay mặt Chính phủ đọc thư của Bác Hồ gửi thiếu niên nhi đồng cả nước và căn dặn các cháu hãy chăm học, chăm làm để xứng đáng với sự quan tâm của Đảng, của Bác. Sau đó các bạn nhỏ được vào Phủ Chủ tịch để đón Tết Trung Thu cùng với Bác Hồ. Từ trên thềm cao, Bác Hồ vui vẻ bước xuống đón các cháu, Bác thân mật trò chuyện. Cả khu vườn im phăng phắc, chỉ có tiếng loa phóng thanh vang lên lời Bác "Các cháu phải ngoan, ở nhà phải nghe lời bố mẹ, đi học phải siêng năng, phải kính thầy yêu bạn. Các cháu phải thương yêu nước nhà...". Rồi Bác ân cần vui vẻ ngắm nhìn các cháu vui chơi dưới ánh trăng rằm. Vâng, mùa Thu với Tết Thu thật là ấm áp. Để cảm cái mùa Thu ấy, Tết thu ấy đã có không ít những bản nhạc, những bài thơ hay, nổi tiếng điển hình với bài “Rước Đèn Tháng Tám” mà các em vẫn hát một cách thích thú: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn trong tay. Em múa ca trong ánh trăng rằm. Đèn kéo quân với đèn cá trắm, đèn thiên nga với đèn bươm bướm. Em rước đèn này đến cung trăng. Đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng. Trông ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Nhà thơ Tản Đà cũng nhắc đến ngày Trung Thu với mấy câu thơ: Có bầu có bạn can chi tủi Cùng gió cùng mây thế mới vui Rồi cứ mỗi năm Rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười./. |