Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất,
lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi
Cà Mau và là ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc. Từ những
thế kỷ trước, từ đời Lý - Trần – Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết
hàng năm một cách trang trọng.
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng
nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, nó mang đậm nét văn hóa dân tộc
sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người và
thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ.
Chữ “Nguyên” có nghĩa là bắt đầu, chữ “Đán” có
nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, tết cũng
là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp,
đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ, tri ân ông bà tổ tiên.
Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, Tết là do xuất xứ từ “tiết” (thời tiết) thuận theo sự vận
hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân –
Hạ – Thu – Đông, điều đó có ý nghĩa rất đặc biệt đối với một nước
thuần nông như Việt Nam.
Theo tín ngưỡng dân gian, bắt đầu từ quan niệm
“Ơn trời mưa nắng phải thì” người nông dân còn cho đây là dịp để
tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan đến nông nghiệp như thần
Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước… Người nông dân cũng không quên
ơn các loài vật đã cùng họ sớm hôm vất vả như trâu, bò, gia súc, gia
cầm và các loại cây lương thực, thực phẩm đã nuôi sống họ.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là
Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có phong tục hằng
năm, mỗi khi năm hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi
đâu, kể cả người xa xứ cách hàng ngàn cây số vẫn mong được về sum
họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được khấn vái dưới bàn
thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà, ngôi mộ, nhìn lại nơi mà một thời
bàn chân bé dại đã tung tăng và mong được sống lại với những kỷ niệm
đầy ắp yêu thương nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Mấy tiếng
“Về quê ăn Tết” không chỉ là khái niệm đi về, mà đằng sau nó là cả
một quá trình hành hương về với cội nguồn, về nơi chôn nhau cắt rốn.
Hiện nay, theo luật thì người Việt chỉ được nghỉ
ăn Tết trong 4 ngày, từ 30 tháng Chạp tới mùng 3 tháng Giêng (âm
lịch). Trên thực tế, không khí Tết sẽ dùng dằng ở lại cho đến hết
tháng Giêng, thậm chí lâu hơn theo tinh thần câu ca dao mà người
Việt ai cũng thuộc lòng:
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”
Trước và sau Tết Nguyên Đán, người Việt có nhiều
phong tục khác nhau, tùy theo từng địa phương. Dưới đây chúng ta sẽ
cùng điểm qua một số phong tục chính:
Lễ ông Công ông Táo
Ông Công ở đây là Thổ Công, là vị thần cai quản đất đai, giới tính
được xác định là nam. Ông Táo là thần bếp, hay Táo Quân, thực chất
lại không phải một vị mà là hai ông và một bà. Lễ ông Công ông Táo
được thực hiện vào ngày 23 tháng Chạp. Trong ngày này, ông Công được
cúng ở ban thờ chính trên nhà, còn ông Táo được cúng dưới bếp. Đồ
cúng thường đi kèm với mấy con cá chép, vì người ta cho rằng vào dịp
cuối năm, ông Công ông Táo cưỡi cá chép bay về Thiên đình, trình bẩm
những việc xảy ra trong dân gian trong năm vừa qua.
Lễ Tất niên
Tất niên có nghĩa là hoàn tất công việc một năm cũ. Vào chiều 30,
nhà người Việt nào cũng chuẩn bị một mâm cơm cúng ông bà tổ tiên để
tiễn biệt năm cũ. Sau đó, cả nhà quây quần bên mâm cơm .
Theo phong tục, trong thời điểm tất niên, mỗi
người phải thu xếp thanh toán hết nợ nần, xóa bỏ những xích mích
trong năm cũ để hướng tới một năm mới thuận hòa hơn.
Lễ Giao thừa
Giao thừa là thời khắc thiêng liêng của năm, khi mà năm cũ ủ rũ ra
đi và năm mới rộn ràng bước tới. Vào thời điểm giao thừa, các gia
đình làm lễ Trừ Tịch. Lễ Trừ Tịch được hiểu là lễ đem vứt những điều
không may mắn của năm cũ đi, và đón lấy những điều tốt đẹp của năm
mới đến.
Một điều không thể thiếu trong lễ Giao thừa trước
đây, mà nay đã bị cấm, đó là đốt pháo đón giao thừa. Theo dân gian
truyền lại, tiếng pháo là để xua đuổi ma quỷ của năm cũ. Cảm xúc đốt
một bánh pháo dài , khói thuốc pháo thơm nồng tràn đầy trong phổ và
con mèo chạy tọt vào gầm giường vì sợ là những ký ức không bao giờ
phai của người Việt Nam về cái Tết của một thời xa xưa...
Đón xuân, đón năm mới (hay Tân niên)
Sau giao thừa là đến Tân Niên - đón một năm mới. Có rất nhiều phong
tục cần tuân thủ vào thời điểm này. Thứ nhất là phong tục xông đất
(hay "đạp đất" của người miền Trung). Người Việt quan niệm rằng ngày
đầu tiên của năm sẽ quyết định " vận mạng" của cả năm: Do đó, người
xông đất là người khách thứ nhất trong năm. Phải có người xông đất
rồi, thì trong nhà mới mở cổng ngõ để đón tiếp mọi người và để cho
người trong nhà ra đường. Người ta tin rằng, đức hạnh của người xông
đất sẽ xua đuổi những cái xấu cũ ra khỏi nhà và đồng thời mang sự
may mắn, hạnh phúc và thịnh vượng mới cho gia chủ.
Thứ hai, phải kể đến việc xuất hành du xuân. Cùng
với các bà mẹ , nam thanh nữ tú thường thích đi ra đường đón xuân.
Đích đến thường là các đình, chùa, miếu, điện... để cầu may và xin
lộc. Người ta tin rằng việc cầu phúc cầu may đầu năm tại chùa chiền
miếu mạo sẽ linh thiêng hơn, và nhiều người xin quẻ ở đây để đoán
việc sẽ xảy ra trong năm. Đa số không quên bẻ lấy một cành cây trước
cửa đình - cửa đền, để về nhà cắm trên bàn thờ cho đến hết Tết.
Phong tục này gọi là hái lộc, tượng trưng cho việc đem lộc trời đất
về nhà, khiến cho cây cối trước chùa thường tơi tả sau Tết.
Thứ ba là phong tục thăm hỏi, chúc tết và lì xì.
Bố mẹ chúc con cái học giỏi và thành đạt, con cái chúc bố mẹ mạnh
khỏe sống lâu. Họ hàng chúc nhau an khang, bạn bè chúc nhau thịnh
vượng. Tới mỗi nhà, người lớn thường cho tiền trẻ con trong những
bao màu đỏ, gọi là mừng tuổi (hay lì xì ở trong Nam). Tiền phong bao
thường là tiền lẻ, với ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm.
Mồng một chúc Tết mẹ cha
Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy.
Kiêng kỵ trong ngày Tết
Trong mấy ngày Tết, người Việt kiêng không cãi nhau, bởi họ tin rằng
cãi nhau, bực tức trong ngày Tết sẽ khiến cả năm xúi quẩy - mất
thuận hòa. Ông bà cha mẹ nhắc con cháu trong nhà từ phút giao thừa
trở đi không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau. Người lớn cũng tránh
quở mắng trách phạt trẻ em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ
niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.
Hoa Tết
Hoa không thể thiếu trong ngày Tết của người miền Bắc là hoa Đào.
Theo truyền thuyết, có cành Đào trong nhà vào dịp Tết sẽ giúp trừ tà
ma. Hoa Đào có nhiều loại: bạch đào, bích đào, hồng đào... và nơi
trồng đào nổi tiếng nhất miền Bắc là Nhật Tân, Nghi Tàm (Hà Nội).
Nghệ nhân ở đây nổi tiếng với khả năng ghép đào, hãm đào, uốn sửa
hình để cho những cây đào dáng đẹp nhiều hoa nở vào đúng tết. Nay
làng đào Nhật Tân đã bị xóa sổ để nhường chỗ cho khu đô thị mới Nam
Thăng Long.
Còn Ở miền Nam, hoa Mai được dùng để đón Tết. Hoa
mai cũng có rất nhiều loại: mai tứ quý màu đỏ, hồng mai, chi mai,
bạch mai màu trắng pha hồng, hoàng mai màu vàng... nhưng phổ biến
hơn cả là hoa mai vàng. Hoa mai cũng năm cánh nhưng không nhiều lớp
như hoa đào. Cánh Hoa mịn màng như lụa. Cành mai nâu sẫm, ngắn, rất
gân guốc nhưng cũng rất mềm mại. Chính vẻ đài các này mà nhiều người
cho rằng từ xa ngắm cành mai như đàn bướm vàng đậu hờ trên các nhánh
cây trông rất thanh nhã, khiêm nhường. Hoa mai tượng trưng cho phẩm
tiết cao quý, khí phách của người quân tử, là niềm cảm hứng rất kinh
điển trong thi ca. Đã hơn một nghìn năm trôi qua nhưng những câu kết
trong bài thơ chữ Hán của Mãn Giác Thiền Sư vẫn còn vang mãi.
Mạc vi xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
nghĩa là:
Đừng tưởng (Chớ Bảo) xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Dù sống xa quê nhà, hay dù sống ở bất cứ nơi đâu,
chúng ta bằng mọi cách bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc Lạc
Việt.