Nước Việt là một cộng đồng các dân tộc anh em. Mỗi dân
tộc có một kiểu ăn tết riêng, đôi khi kéo dài rất dài ngày tạo thành
mùa gọi là mùa Tết. Mỗi kiểu ăn Tết đều biểu hiện nét đặc trưng văn
hoá riêng của dân tộc mình.
Tết Prơ-giê-râm của người Cơ Tu
Vào
mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn,
Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-râm. Đây là ngày lễ
lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại
ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn
thận. Ở nhà Gươi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo
trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà
Gươi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi
tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng....
Tết Nhảy của người Dao
Người
Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo
vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang
hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay
trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người
Dao đón Tết bằng Tết Nhảy gọi là "Nhiang chằm Đao" để rèn luyện sức
khoẻ và võ nghệ. Tết Nhảy bắt đầu trước tết Nguyên đán chừng vài ba
hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng
gỗ để múa. Tết Nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt
trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Tết Giọt Nước của người Xơ đăng
Người
Xơđăng ở Kontum ăn tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là Tết
Giọt Nước và Tết Lửa. Tết Giọt Nước vào khoảng tháng 3 dương lịch.
Sau khi mãn mùa, người Xơ đăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và
tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân
làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.
Người
trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước
mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền.
Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà
Rông, do thầy cúng tổ chức.
Tết của người Mông
Tết
Nguyên đán của người Mông gọi là Naox-Cha. Trong dịp này, ngoài một
con lợn béo được chuẩn bị sẵn ra, người ta còn làm bánh bằng bột
nếp, bánh chưng ít khi dùng...
Tết của người Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá rét, trước hay
sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Đêm giao thừa các gia đình thường
cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ngoài sông suối đem về
nhà cúng tổ tiên.
Tết của người H'Ré
Tết
của đồng bào H’Ré ởã Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền.
Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu
có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ
vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi
người đều tề tựu về nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau
đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Đàn
ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ
vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng... Họ thích trò
chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng
hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai
người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết Bỏ Mả của người Gia Rai
Tết Bỏ
Mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như Tết ăn nhà
Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt
thời kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để
thưởng thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống,
cồng vang lên ở ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong
buôn nối đuôi nhau, tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để
chia vui cùng người thân thuộc. Mọi người không quên mang theo rượu,
thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong suốt cuộc lễ. Tùy theo
gia cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia
chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo
nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên
trời lầm rầm khấn vái Yàng.
Tết của người Thái
Người
Thái ở Sơn La và Lai Châu đón Tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa
Tết. Đầu tiên là Tết Soong Sịp (Tết Cơm Mới) sau khi lúa ở ngoài
đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để
cúng lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau Tết Soong Sịp là
Tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là Tết Nen
Bươn Tiền (Tết Nguyên đán).
Vào
ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát
quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi
tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Tết Cơm Mới của người Ê Đê
Tết
Cơm Mới của người Rhadé hay Êđê ở Đăk Lăk là vào khoảng tháng 10
dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang
gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín.
Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo,
gà nhiều hay ít.
Lễ vật
đặt ở giữa nhà gồm một hay hai chóe rượu cần buộc chặt vào gốc cột
và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần
Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng
con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ
phía Đông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng
giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời xin
cho mỗi năm lúa được đầy vựạ..".
Tết Yang Pa của người Chơ-Ro
Người
Chơ-Ro hay Chu-Ru sinh sống tại Đồng Nai, Lâm Đồng và Bà Rịa - Vũng
Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ-Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng
thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc
các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh
ống, bánh dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do
gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ
là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến
nghỉ ngơi ở đó.
Tết Nhô LirBông của người K'Ho
Người
K'Ho hay sinh sống ở Lâm Đồng. Họ ăn Tết sau Tết Nguyên đán của
người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô LirBông, tức Tết
mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ LirBông có nghĩa
là cót thóc. Người LirBông rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là
những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại
kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ
làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên
vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung
với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên
ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên
những đồ gia dụng. Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người K'Ho
rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung
vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Tết của người Tày
Người
Tày bắt đầu ăn Tết từ ngày 28. Họ trang trí lại nhà cửa, quét dọn
sạch sẽ, sắp xếp lại đồ đạc trong nhà. Ngày 29, họ thịt lợn để làm
thức ăn như giò chả, thịt nướng, thịt luộc, lạp xường... Ngày 30
Tết, tất cả đồ dùng trong nhà như dao, dựa, cày, bừa... gom vào một
nơi để làm lễ cúng và cho nghỉ ngơi ăn Tết. Đêm giao thừa không được
thắp đuốc vì làm như thế năm mới sẽ hạn. Ngày Tết, họ làm đủ thứ
bánh như miền xuôi, nhưng chỉ có bánh chưng thì gói tròn gọi là bánh
tày. Nhiều hội xuân tổ chức vào dịp Tết như hội còn, hát lượn thật
vui vẻ và hào hứng.
Tết của người Nhắng
Người
Nhắng ở Lào Cai ăn Tết giống người Kinh ở miền xuôi. Giờ giao thừa,
họ có tục đi lấy nước đầu năm về pha trà cúng tổ tiên. Lúc trở về,
bao giờ họ cũng đem theo cành lộc để cắm trên bàn thờ. Bàn thờ của
người Nhắng rất đơn giản, chỉ có một bát hương và vài đĩa quả. Trước
bàn thờ là một chiếc cồng làm bằng nứa thật dài, còn nguyên cả lá
uốn cong xuống. Sau đó chọn giờ tốt để mang chum vại ra suối múc
nước mang về dùng. Mồng Một Tết, người Nhắng chỉ cúng và ăn đồ chay,
họ cũng không ra khỏi nhà mà chỉ chúc tụng những người trong gia
đình. Ngày mồng Hai trở đi họ cúng mặn, đi thăm chúc Tết bà con họ
hàng và đến các đền miếu để cầu xin những điều may mắn, tốt lành cho
gia đình. Ngày Tết, họ cũng tổ chức vui chơi, ca hát cho đến lễ Lục
Tùng, tức lễ cúng ông Thần coi về mùa màng vào mồng bảy tháng Giêng
mới mãn.
Tết của người Ba Na
Người
Ba Na ở Bình Định và Gia Lai thường ăn Tết thật linh đình và hầu như
tổ chức lễ tết quanh năm. Về lễ, họ có nhiều lễ lớn như Bru-Hoposat
(lễ Bỏ Mả) vào tháng Giêng và tháng Hai; lễ Midak-Mat-Aton để cầu
hồn người chết, Lễ Puh-Sodu để xua đuổi tà ma; Lễ Koh-Sa-Kopo để cầu
bình an vào khoảng tháng 6 dương lịch và lễ Nùng Chàm để cầu mưa
thuận gió hòa. Cuối cùng là Tết Et Tojur Sa hay Yang Sré (Tết mãn
mùa) tổ chức sau mùa gặt hái (khoảng sau Tết Nguyên đán ở miền
xuôi).
Riêng
người Ba Na ở Bình Định ăn Tết mãn mùa gọi là CHRUL-COL kéo dài cả
tháng vào dịp trăng tròn để cho cuộc vui thêm trọn vẹn.
Tết của người Khmer Nam Bộ
Người
Khmer ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tổ chức ăn Tết Chôn Chăm
Mây và tháng "chét" theo lịch Khmer, tức vào khoảng tháng Tư dương
lịch, nhằm vào ba ngày 13-14-15 trăng tròn. Người Khmer xem Tết Chôn
Chăm Mây là ngày lễ tôn giáo và cũng là dịp để tẩy sạch bụi trần.
Trong
ngày đầu năm, họ lo đi viếng chùa lễ Phật, sau đó xuống sông gánh
cát đắp nhiều ngọn núi cát chung quanh chùa. Đến ngày mồng Bốn Tết
trở đi, họ mới đi thăm viếng chúc tụng lẫn nhau, đồng thời tổ chức
các trò vui chơi. Những trò vui thường tổ chức trước sân chùa vào
ban đêm dưới ánh trăng.
Tết của người Lô Lô
Người
Lô Lô ở Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu cũng giống như người Kinh, họ
chuẩn bị lợn gà, các loại bánh trái thật đầy đủ để ăn Tết. Ngay từ
29-30 Tết, các nhà đều dọn dẹp sạch sẽ để tống khứ uế tạp trong năm
cũ. Chiều 30 Tết, mọi gia đình tổ chức bữa cơm sum họp và người chủ
gia đình chúc phúc cho hết thảy các thành viên..Người Lô Lô có tục
đón giao thừa bằng cách đánh thức tất cả gia súc nuôi trong nhà cùng
dậy. Tất cả đồ dùng trong gia đình và cây cối trong vườn đều được
dán giấy màu vàng bạc để nghỉ ngơi trong ba ngày Tết.
Tết của người Hrê
Tết
của đồng bào Hrê gọi là H’Tend. Tiếng địa phương có nghĩa là hội tế.
Họ không ăn Tết cùng một ngày với nhau mà mỗi làng, mỗi xã định ra
ngày Tết của riêng mình. Vào những ngày cuối năm, người cao tuổi có
uy tín trong buôn làng bàn bạc, lựa chọn ngày để chủ làng (Prăk -
Play) quyết định ngày ăn Tết và bảo cho mọi người, mọi nhà được biết
mà lo chuẩn bị. Vào ngày Tết, nhà nào cũng có nồi bánh tét trong
nhà. Những gia đình giàu có nấu một lần đôi ba nồi, ủ hàng chục ché
rượu cần đem đãi khách. Nhà nào vào dịp cuối năm bẫy được nhiều thú
rừng thì đem chia cho làng. Họ quan niệm của thần linh ban cho thì
mọi người cùng hưởng.
Ngày
Tết thứ nhất được mở đầu là lễ H’vang H’Nim (chủ yếu tiễn năm cũ,
đón năm mới). Tiếp đến là lễ cúng K’la Hoang, Chem H’rai, Quai Xiroo
mà nội dung chủ yếu là rước thần linh, tổ tiên về ăn Tết cùng người
sống, cầu mong sự no đủ, tránh được điều xấu, kẻ ác. Sáng ngày Tết
thứ hai, làm lễ cúng trâu (Ta H’reo Capơ) ngay trước cửa chuồng. Đây
là lễ cúng đặc biệt quan trọng. Đối với người Hrê, ngoài giá trị của
cải, con trâu là vật thân thiết giúp họ kéo gỗ, cày bừa. Sau đó chủ
nhà dọn cơm lam, rượu, thịt để mời khách cùng cả nhà ăn uống no say.
Con trai thì trổ tài đánh chiêng, chơi đàn K’râu, B’rót, múa gươm,
phóng lao, đánh vật, leo núi. Con gái nhảy múa, khoe vòng kiềng và
những bộ váy thổ cẩm tự mình dệt lấy. Ngày Tết thứ ba là ngày cuối
cùng, gọi là Ô K’roh, đón khách đến thăm nhà. Chủ và khách chúc nhau
những lời tốt đẹp.
Tết Yang Pa của người Chơ-Ro
Người
Chơ-Ro hay Chu-Ru sinh sống chủ yếu ở Đồng Nai, Lâm Đồng và Bà Rịa -
Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ-Ro là lễ cúng thần rừng và lễ
cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng
là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh
tét, bánh ống, bánh dầy...
Sau lễ
cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi
tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong
buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.