 |
Ngũ quả |
Ngày Tết,
cho dù ở thành thị hay thôn quê, giàu sang hay nghèo khó,
trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách, hầu như nhà
nào cũng trưng một mâm ngũ quả, và cố thể hiện sao cho vừa
đẹp mắt vừa hàm ý những điều ước nguyện của gia chủ.
Gọi là ngũ quả nhưng thật ra chẳng ai rõ
quy định là những loại quả gì mà tùy từng địa phương với đặc
trưng về khí hậu, sản vật và quan niệm riêng mà người ta
chọn ra các loại quả để "thiết kế" mâm ngũ quả. Tuy nhiên,
dù là loại quả gì, mâm ngũ quả vẫn mang một ý nghĩa chung:
dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những
điều tốt lành trong gia sự. Mỗi loại quả đều có mùi vị, màu
sắc riêng và cũng mang những ý nghĩa nhất định.
- Lê (hay mật phụ), ngọt thanh ngụ ý việc
gì cũng trơn tru, suôn sẻ.
- Lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho con đàn
cháu đống.
- Đào thể hiện sự thăng tiến.
- Mai, do điển phiếu mai, con gái phải có
chồng, hạnh phúc, không cô đơn.
- Phật thủ giống như bàn tay của Phật,
chở che cho con người.
- Táo (loại trái to màu đỏ tươi) có nghĩa
là phú quý.
- Hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ,
tượng trưng cho sự thành đạt.
- Thanh long - ý rồng mây gặp hội.
- Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa
hẹn sự ngọt ngào, may mắn
- Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy
nắng sương đọng thành quả ngọt và che chở, bảo bọc.
- Quả trứng gà có hình trái đào tiên -
lộc trời.
- Dừa có âm tương tự như là "vừa", có
nghĩa là không thiếu.
- Sung gắn với biểu tượng sung mãn về sức
khỏe hay tiền bạc.
- Đu đủ mang đến sự đầy đủ thịnh vượng.
- Xoài có âm na ná như là "xài", để cầu
mong cho tiêu xài không thiếu thốn.
Do trái cây ngày càng nhiều, loại nào
cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối
với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ
thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm
ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu
kệ cứng nhắc "ngũ quả" nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả.
Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là "mâm ngũ quả" và, dù
đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là "mâm". Bởi đó là một
“sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu
dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo”.
Tùy theo quan niệm của từng vùng, miền,
người ta sử dụng những loại quả có ý nghĩa riêng. Ví dụ mâm
ngũ quả của người Bắc bao giờ cũng có nải chuối - thể hiện
sự che chở của đất trời cho con người, nhưng người Nam thì
lại cho rằng từ chuối - có âm giống từ "chúi", thể hiện sự
nguy khó, không ngẩng lên được nên không dùng. Hay người Nam
cũng không trưng quả cam bởi câu "quýt làm cam chịu" nhưng
mâm ngũ quả của người Bắc thì không thể thiếu quả cam với
màu vỏ vàng tươi rói. Mâm ngũ quả của người Nam thường có
các loại quả mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (theo câu "cầu
vừa đủ xài sung"), thêm "chân đế" là 3 trái thơm (dứa) thể
hiện sự vững vàng. Trong khi với người Bắc, hầu như tất cả
các loại quả đều có thể bày trên mâm ngũ quả, không kiêng cả
quả ớt (cay đắng), miễn sao đẹp mắt và "hoành tráng" là
được...
Chưng bày mâm ngũ quả trong những ngày
thiêng liêng đầu năm đầu tháng mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc
văn hóa cội nguồn cực kỳ độc đáo của dân Việt ta. Vì vậy,
những người trẻ, cho dù tin hay không tin về ý nghĩa của
từng loại quả theo những quan niệm của người dân ở từng địa
phương, cũng nên lưu tâm, tránh dùng hay tặng các loại quả
mà người ta kiêng kẻo bị nghĩ oan, rằng ta cố tình đem điều
xui xẻo đến cho họ.
Tại sao lại là ngũ
quả?
Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm.
Người ta tìm thấy nó ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ “ngũ”
nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm
trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy,
tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dương tạo nên năm
nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành.
Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng
văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến
đều gộp vào con số 5. Trong Đại từ điển, “ngũ” có đến mười
hai nghĩa và một ngàn một trăm bốn mươi tám từ kép ghép với
nó. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và
Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ
quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung
của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập
thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật
dâng cúng là quả.
Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc
(đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê)
là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái cây nói chung) là thứ
yếu. Do đó, theo Chiêm thư người ta thường quan sát sự tốt
xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ
cốc: 1) Mận chủ vào đậu; 2) Hạnh chủ về lúa mì; 3) Đào chủ
vào tiểu mạch; 4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương; 5) Tảo
(táo) chủ vào lúa. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ
biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn”
của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào
đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở
đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn
nhất là được mùa ngũ cốc.
Quả (trái) - biểu tượng của sung túc.
Trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào.
Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ
trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu
trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn
thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử-hiểu theo nghĩa là sự
nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều hướng này, quả
bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh
tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết;
giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương
thế… Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật
tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý
nghĩa riêng - hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác
định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên… |