Tết Nguyên Đán hay Tết Cả là lễ hội cổ truyền
lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan
đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân
tộc.
Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành
lễ Tết hàng năm một cách trang trọng. Tết Nguyên Đán là khâu đầu
tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần "lễ"
cũng như phần "hội" đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình
thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà. Việc ông cha ta
xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một
năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh
tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh
vật).
Chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN
có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết
cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum
họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ
tiên. Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết -
do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở
sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông - có một ý nghĩa
đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông
nghiệp làm chính.
Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm "Ơn trời mưa nắng
phải thì ", người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các
vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần
Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời... Người nông dân
cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ,
từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt
Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ
nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong
được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn
vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng
nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và
được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng
chào đời.
"Về quê ăn Tết", đó không phải là một khái niệm thông thường đi
hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn
nhau cắt rốn. Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân
là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở
rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình
gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã
từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ...
Tết cũng là dịp "tính sổ" mọi hoạt động của một năm qua, liên
hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và
cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của
từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có
thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương,
từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh
trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về... Đối với các gia đình
lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể,
thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về
trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày
xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh,
hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ "Phất thức" (tức lễ rửa ấn, rửa
triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua,
các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết
được coi trọng như thế nào. Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong
cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng
cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng
phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ)
mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng
chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau
giao thừa).
Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng
đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi
người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh
chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất
khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê
hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi
hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao
quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng
sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên
chợ Tết rợp trời hoa!

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng
liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới,
thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp
với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã
chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ
ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng Trong
những bao giấy đỏ.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái một
nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về
cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc
của trời đất thần phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau
giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người
"xông nhà", là người "tốt vía" thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp
nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những
người bạn thân.
Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào
ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân
dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng
xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng
hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết
để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ
đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.
Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?
Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ
Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng
đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích màu
trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua
nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con
chuột), tháng mười một làm tháng Tết.
Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa:
nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài
người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử
ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời
Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng
Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế
(140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng
Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại,
không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày
thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày
thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế,
ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.
Tại sao cúng giao thừa ngoài trời?
Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới
đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa
hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.
* Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm
mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch.
Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp
qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn
là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử
hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
* Cúng ai trong lễ giao thừa
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta
quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom
công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có vị trí như quan toàn
quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì
hạ giới được nhờ như: Được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh,
bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam...
thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là
lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan
quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ.
Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy
không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy
được), thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút
ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra
ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản
mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ
giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn
trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có
thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng
kiến lòng thành của chủ nhà. Ví cứ tưởng tượng thêm thắt các hình
ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng
giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bởi
những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm
đến chủ hảo tâm mà phù hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt.
Biết thấu tâm lý của người giàu, các cụ ta đã có nhiều câu chuyện
răn đời để người ta hiểu rằng: Các quan mặc dầu phút bàn giao bận
rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu
ngay "Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót,
các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập
tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao
thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật
thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu,
nén hương (như thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức
trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.
* Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm
cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa
trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn
đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà,
bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi
khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.

Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu
lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành
khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng
cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người
ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì
giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
* Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức
là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao
thừa.
* Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch
- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà
cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn
trọng thực hiện.
- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo
nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để
xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân
dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng
xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục
hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về
ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này
được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc
tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng
khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương
bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy
từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt
quanh năm.
- Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia
đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin
hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã
sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình,
mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người
nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng
một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này
đem lại sự may mắn dễ dãi.
Vì sao có tục kiêng hót rác đổ đi trong ba ngày tết?
Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi
qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt,
đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mồng một
Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu
Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám hót rác ngày Tết.
Tục kiêng hót rác ba ngày Tết nên ngày 30, dầu bận rộn đến đâu
cũng phải dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và những ngày Tết thì mọi người
phải hết sức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.
Ngày Tết có những phong tục gì?
Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết.
Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan
Ngọ, TrungThu... Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên
Đán (ngày đầu năm).
Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là
thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân,
mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh
thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc
bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi
một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.
Tống cựu nghênh tân: cuối năm quét dọn sạch sẽ
nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp
nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm
quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ
thức ăn vật dụng.
Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi
không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi
bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở
mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm
nở dầu lạ dầu quen.
Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay
không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết.
Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói
khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới
gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp,
người ta chúc nhau những điều tốt lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi: ai cũng
hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe
tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là
một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình
xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà.
Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có
sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với
bạn. ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo
gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc
phước dồi dào". Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều
người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến
nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì
không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng
một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục
xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi
không tính.
Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước
hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị
một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm
láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng
xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là
phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi
lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc.
Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên
nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong
cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với
người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn
chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều
rủi ro hoặc xấu xa.
Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau,
nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý
vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém
là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà,
không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết
nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời
vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm.
Quà Tết, lễ Tết: Bình thường qua lại hỏi thăm
nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi
lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ
động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết,
tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh
nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà Tết đó
không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu
nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta
tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".
Lễ mừng thọ: ở các nước Tây Âu thường mừng thọ
vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày
sinh tháng đẻ nên vào dị
p
đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần...
tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang
rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.
Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học
trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công,
người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ
dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận
hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay
lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám,
vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế
hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy
ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu.
Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không
kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai
thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm,
dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì
ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người
bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.