Anh cho
em mùa Xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều Đông nào nhung nhớ. Đường lao
xao lá đầy, chân bước mòn hè phố, mắt buồn vin ngọn cây. Anh cho em
mùa Xuân, mùa Xuân này tất cả, lộc non vừa trẩy lá. Lời thơ ru cõi
đời, bầy chim lùa vạt nắng, trong khói chiều chơi vơi…” (Anh Cho Em
Mùa Xuân – nhạc: Nguyễn Hiền, thơ: Kim Tuấn).
Tiết tấu
nhẹ nhàng mà vẫn rộn ràng đưa hơi thở mùa Xuân vào cuộc sống. Đây là
một ca khúc Xuân rất quen thuộc và dễ thương, ca từ đẹp và giai điệu
cũng đẹp. Trong ca khúc này có động từ “cho” được lặp đi lặp lại,
nói lên lòng quảng đại chứ không ích kỷ chỉ muốn “nhận”, vì “cho”
(tặng, biếu) là một động từ quan trọng trong cuộc sống thường nhật
Khi có
chuyện gì phấn khởi, người ta thường nói “vui như Tết” hoặc “Tết
nhất”. Điều đó chứng tỏ là Tết rất vui, luôn được mong chờ, luôn là
ngày “nhất” trong năm. Ngày Tết, với trẻ em là niềm khao khát và vui
mừng, với người lớn là trách nhiệm và bổn phận – và đôi khi có người
không mong Tết, vì Tết đối với họ có thể buồn hơn ngày thường.
Đông lạnh qua, Xuân
ấm đến, đó là quy luật tự nhiên của đất trời. Mùa Xuân là mùa của sự
sống, cây cối nảy lộc, đơm bông, thể hiện tính trẻ trung và đổi mới.
Mùa Xuân còn là dịp đoàn tụ, yêu thương, tha thứ, cùng tận hưởng và
chia sẻ niềm hạnh phúc. Gặp nhau, ai cũng tay bắt mặt mừng, có gì
sai sót trong năm cũ cũng bỏ qua hết, và trao nhau những lời chúc
tốt đẹp nhất. Đó là “tống cựu, nghinh tân”, đặc biệt trong giây phút
thiêng liêng nhất: Giao thừa. Ngày xưa, đêm giao thừa còn được gọi
là đêm trừ tịch – khoảng thời gian thiêng liêng nhất trong năm, khi
các gia đình sum họp, chuẩn bị đón năm mới với những điều tốt lành
sẽ đến và tiễn trừ năm cũ với những muộn phiền đã qua.
Trong giây phút giao
thừa, các gia đình lập bàn thờ cúng tổ tiên, khói nhang nghi ngút,
bánh trái đầy bàn. Người ta thường đặt trên bàn các loại trái cây
như: Mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài; theo phát âm tiếng Nam bộ là “cầu
vừa đủ xài”. Như vậy, kể ra người ta cũng không tham lam, còn giữ
được “nhân chi sơ tính bổn thiện”. Người có máu khôi hài thì nói là
bày trên bàn 4 thứ: Chôm chôm, xoài, cái líp, cái gác baga; nghĩa là
“chôm chỉa để xài líp baga” (xài líp baga là xài thoải mái). Dù chỉ
đùa vui, nhưng chứng tỏ con người đã… biến chất “thiện”. Người ta
còn bói Kiều và làm những nghi lễ trừ ma quỷ, người Công giáo cũng
có thói quen đạo đức là rẩy nước phép quanh nhà để trừ ma quỷ. Người
Việt có tục lệ tốt đẹp:
Xuân về, mồng
Một tết Cha
Mồng Hai tết
Chú, mồng Ba tết Thầy
Mồng Một tết Cha –
Người Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, truyền thống “uống
nước nhớ nguồn” được tôn trọng, đó một truyền thống tốt đẹp đầy tính
nhân bản. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người thân có công lao
lớn đối với chúng ta, thế nên chúng ta phải dành “ưu tiên số một”.
Thật vậy, đó không chỉ là nghĩa vụ của mọi người theo phần đời, vì
“chim có tổ, người có tông, sông có nguồn”, mà còn là nghĩa vụ theo
Công giáo, vì Thiên Chúa đã dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (x.
Hc 3:1-16). Nghĩa vụ thì phải làm, nhưng đồng thời có lợi cho chính
mình: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ
kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ
sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh
Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3:3-6). Và Thiên Chúa cũng
cảnh báo: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc
giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16).
Mồng Hai tết Chú –
Đó là các thân bằng quyến thuộc, là họ hàng Nội Ngoại, là xóm giềng,
là bạn bè, là ân nhân,… Sống trên đời không ai có thể là một ốc đảo,
vì cuộc sống là một xã hội, không trực tiếp liên hệ thì cũng gián
tiếp liên hệ bằng nhiều cách. Người này có liên đới với người kia,
dù có thể chỉ là một ánh mắt hoặc thái độ, thậm chí có thể chỉ qua ý
nghĩ. Người này có trách nhiệm và bổn phận với người kia, dù là
người dưng nước lã, dù là người chưa biết mặt quen tên. Hãy tết nhau
bằng cách luôn triệt để tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền
của nhau.
Mồng Ba tết Thầy –
Thời phong kiến áp dụng trật tự xã hội: Quân – Sư – Phụ. Ở đây chúng
ta không nói chuyện “thứ tự trước sau” mà chú trọng tầm quan trọng
của 3 cấp bậc. Trong đó người thầy được đề cao theo tinh thần “tôn
sư trọng đạo”, và người Việt cũng khuyên: “Muốn con hay chữ hãy
yêu lấy thầy”. Hán Việt dùng từ Sư Phụ, người thầy không chỉ là
người dạy mà còn được coi như “phụ mẫu”. Thế nhưng ngày nay người ta
không còn coi trọng lòng “tôn sư trọng đạo”, đó là dấu hiệu sa sút
đạo đức!
Tết nhau
không hẳn là món quà cáp bằng vật chất, có “khả năng” tết nhau một
chút lễ vật thì cũng tốt, nhưng đừng câu nệ “quà cáp” mà “biến
chất”, quan trọng nhất là cởi mở gặp gỡ nhau với cả tấm lòng, tết
nhau bằng những ước muốn tốt đẹp, những lời cầu chúc chân thành,
những lời cầu nguyện thành tín. Tiếng Việt thật thú vị khi dùng từ
“gặp gỡ”: Gặp nhau thì phải “gỡ bỏ” mọi vướng mắc, không “gỡ” thì
không thể nào “gặp” được. Đó là cách sống tích cực theo đạo làm
người và theo tôn giáo của mỗi người.
Người Công
giáo có “quy ước” riêng của Giáo hội đối với 3 ngày Tết:
Mồng Một cầu xin
Thiên Chúa
Ban cho thế giới
bình an
Thể lý cũng như
tâm hồn
Kiên vững niềm
Tin, Cậy, Mến
Bình an là điều luôn
cần thiết đối với mọi người trong mọi thời và mọi nơi. Muốn sống
bình an thì bạn phải tạo hòa bình xã hội, bạn không thể bình an khi
xã hội rối loạn hoặc tinh thần chán nản. Bình an trước tiên là sức
khỏe – tinh thần và thể lý. Đúng như tục ngữ nói: “Sức khỏe là
vàng”. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Mồng Hai thành
tâm khấn nguyện
Xin cho mùa màng
bội thu
Công ăn việc làm
thuận hòa
An tâm không
phải thao thức
Sống không thể chỉ
hít thở khí trời và uống nước lã, vì thế con người cần mưu sinh.
Muốn mưu sinh thì phải có nghề nghiệp, có công ăn việc làm. Công
việc lại có liên quan và tùy thuộc thời tiết. Mùa màng bội thu thì
con người hạnh phúc phấn khởi, mùa màng thất bát thì con người đói
khổ. Nói vậy không có nghĩa là thời tiết chỉ quan trọng đối với nông
dân, không có nông dân thì “kẻ sĩ” cũng không sống nổi. Mọi người
đều liên đới với nhau về nhiều phương diện, không thể nói “nhất sĩ,
nhì nông” hoặc “nhất nông, nhì sĩ”. Giới nào cũng có cái “nhất” và
cái “nhì”, không ai “ưu thế” hơn ai
Mồng Ba xin Chúa
chúc phúc
Ban cho cha mẹ,
ông bà
Luôn sống thánh
thiện, an hòa
Vui cùng đàn
con, lũ cháu
Cầu nguyện cho người
còn sống được an khang hạnh phúc là chuyện dĩ nhiên, chúng ta còn có
bổn phận cầu nguyện cho những người đã “ra đi” trước chúng ta. Xuân
về Tết đến, mọi người sum họp hữu hình, còn tổ tiên không thể sum
họp hữu hình với đàn con, lũ cháu, nhưng họ vẫn khả dĩ sum họp vô
hình với chúng ta.
Mùa Xuân là dịp nghỉ
ngơi, vui chơi, cho phép người ta có thể tiêu xài “rộng tay” một
chút. Tuy nhiên, đôi khi có thể người ta muốn chứng tỏ “đẳng cấp”
của mình mà “chơi nổi” kiểu công tử Bạc Liêu, chưa tới mức “lấy tiền
nấu trứng” nhưng cũng có vẻ muốn tỏ ra “đại gia”. Năm ngoái, có
những người không ngần ngại chứng tỏ “bản lĩnh” đó: Có người mua cặp
dưa hấu với giá 900.000 VNĐ, có người mua bộ phản gỗ (bộ ngựa)
100.000 USD, có người “khoe” là bỏ ra 20 triệu VNĐ để sắm tết,… Và
còn nhiều “cách chơi” khác nữa.
Trong khi có những
người “vung tay quá trán” như vậy thì vẫn có những con người chưa
hưởng trọn vẹn mấy ngày Tết hoặc không hề có mùa Xuân. Một cậu bé 10
tuổi ở Đồng Tháp, ở với bà ngoại ngoài 80 tuổi, em chỉ mong Tết đến
để được ăn món “khổ qua xào với trứng”. Được hỏi sao em ước mơ như
vậy, em cười hồn nhiên và cho biết: “Vì chỉ có ngày Tết ngoại
mới để dành đủ tiền để làm món đó”. Câu nói của em thật hồn
nhiên nhưng sao nghe lòng nhói đau quá! Một ước mơ quá bình dị như
vậy mà sao khó với em bé này đến vậy? Quả thật, cuộc đời còn biết
bao con người khốn khổ, họ không mong Tết, mà có mơ cũng không thấy!
Xã hội khó có thể
trở thành thế giới đại đồng, nhưng cũng có thể tương đối, nếu người
giàu biết bớt phần lãng phí để chia sẻ với người nghèo. Thực ra, đó
là trách nhiệm và bổn phận của đạo làm người.
Chuyện giàu – nghèo
là lẽ tất nhiên ở đời, nhưng vẫn là một ẩn số vô cực. Mùa Xuân là
mùa của ngàn hoa tươi sắc, lòng người cảm thấy rạo rực khó tả, có
những khuôn mặt rạng rỡ nụ cười và cười “hết cỡ thợ mộc”, nhưng cũng
có những khuôn mặt còn ủ rũ, đôi môi khô héo, lòng luôn trĩu nặng…
Chúa Giêsu luôn hết
lòng quan tâm và chăm sóc người nghèo, Ngài đã “chắc nịch” xác định:
“Mỗi lần anh chị em làm điều gì cho một trong những người bé nhỏ
nhất của Tôi, đó là anh chị em đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:40).
Ngài muốn chúng ta
NÓI và LÀM, không nói suông, không hứa lèo, không chỉ mở lòng mà còn
phải mở đôi tay và mở hầu bao. Mỗi ngày chúng ta nhiều lần cầu
nguyện bằng Kinh Lạy Cha (Lc 11:1-4), chúng ta thấy Ngài nói thực
tế, không hề bóng gió: “Không lẽ người ta xin cá thì lại lấy rắn
mà cho nó? Hoặc người ta xin trứng lại cho họ bò cạp?” (x. Lc
11:9-12).
Xuân về, Tết
đến, đó là mùa yêu thương, mà yêu thương thì phải chia sẻ, chia sẻ
cả vật chất lẫn tinh thần, vì “đức tin không có việc làm là đức tin
chết” (Gc 2:17 & 26). Hãy chân thành tặng nhau một mùa Xuân tươi đẹp
nhất, rộn rã nhất và trọn vẹn nhất!
Mùa Xuân thắm
sắc mai vàng
Bình minh tỏa
ánh nắng vàng lung linh
Giáo đường vang
vọng lời kinh
Hồi chuông đổ
nhịp ân tình ngàn năm
Tin yêu nở giữa
mùa Xuân
Hồng ân Cứu độ
tuôn tràn bao la…
Cầu mong cho xã hội
luôn biết tôn trọng công lý để xã hội có nền hòa bình đích thực. Cầu
mong cho mọi người biết yêu thương nhau bằng tình đồng loại trọn vẹn
để ai cũng được tôn trọng nhân quyền đúng nghĩa và có thể tận hưởng
mùa Xuân viên mãn nhất. Nhờ vậy mà “Ý Cha được thể hiện dưới đất
cũng như trên trời”!
Lạy Thiên Chúa, Ngài
là Chúa-Xuân-Tuyệt-Đối và là Mùa-Xuân-Vĩnh-Hằng của chúng con, xin
giúp chúng con sống trọn ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các nhân
đức đối nhân để chúng con thể hiện Lòng Chúa Thương Xót trong từng
hơi thở. Xin Ngài thương xót những mảnh đời cơ cực, để họ có chút
niềm vui ngày Xuân. Xin Ngài cũng thương chúc phúc và ban cho chúng
con được ơn Khôn ngoan, vì “tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ
Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1).
Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng
con. Amen. |