Những Câu Chuyện Mùa Vọng


 MÙA VỌNG

Lại Thế Lãng

Mùa Vọng là mùa mở đầu cho năm phụng vụ. Lễ phục được dùng trong suốt mùa Vọng. hầu hết là màu tím. Ngoài ra nhà thờ nào cũng có 4 ngọn nến trong đó 3 ngọn màu tím và một ngọn màu hồng. Có lẽ không ít người sẽ bối rối khi được hỏi 4 ngọn nến và màu sắc của chúng mang ý nghĩa gì. Tôi cũng ở trong số đó nhưng may mắn đọc được bài “Các biểu tượng và ý nghĩa thiêng liêng của mùa Vọng” của tác gỉa Anthony Lê được đăng trên Vietcatholic ngày 29/11/2007 nên được biết ý nghĩa như sau:

Bốn ngọn nến tượng trưng cho 4,000 năm loài người trông đợi Đấng Cứu Thế nghĩa là từ khoảng thời gian ông bà nguyên tổ bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng rồi loài người rơi vào sa đoạ, tội lỗi cho đến ngày Chúa sinh xuống trần gian. Mỗi ngọn nến tượng trưng cho một giai đoạn trong tiến trình trông đợi đó. Màu tím nói lên sự chờ đợi và ăn năn thống hối còn màu hồng tượng trưng cho sự mừng rỡ và hân hoan trong việc đón mừng ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Trong ngày Chúa nhật đầu tiên của mùa Vọng, sau nghi thức làm phép nến, một ngọn nến màu tím được thắp sáng và ngọn nến này tiếp tục được thắp sáng trong những ngày tiếp theo của cả tuần lễ đó. Ngọn nến thứ nhất này tượng trưng cho sự HỐI CẢI chuẩn bị cho ngày Đấng Cứu Thế đến.

Trong ngày Chúa nhật của tuần lễ thứ hai một ngọn nến màu tím khác được thắp sáng và cả 2 ngọn nến sẽ tiếp tục được thắp sáng trong những ngày còn lại của tuấn lễ này. Ngọn nến màu tím thứ hai tượng trưng cho sự TRÔNG CHỜ ngày hạ sinh của Đấng Cứu Thế

Trong ngày Chúa nhật của tuần lễ thứ ba ngọn nến màu hồng được thắp sáng và sẽ cùng với hai ngọn nến trước tiếp tục được thắp sáng trong những ngày còn lại của cả tuần lễ. Ngọn nến màu hồng thứ ba tượng trưng cho sự VUI MỪNG và niềm hân hoan vì Chúa Cứu Thế sắp đến.

Trong ngày Chúa nhật của tuần lễ thứ tư cũng là tuần lễ cuối cùng của mùa Vọng ngọn nến cuối cùng màu tím được thắp sáng và tất cả 4 ngọn nến sẽ được thắp sáng trong những ngày tiếp theo cho đến lễ Gíang sinh. Ngọn nến thứ tư màu tím tượng trưng cho sự kiên vững trong NIỀM TIN trong việc chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa đến trong lễ Gíang sinh.

Mùa Vọng đến mỗi năm vì vậy người tín hữu Công giáo nào cũng đều được nhắc nhở nhiều lần để biết mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa Cứu Thế. Nhưng trông đợi theo ý nghĩa nào? Trông chờ Chúa đến mang ơn cứu độ ư? Người Do Thái cho rằng Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi chưa đến trần gian cho nên họ vẫn còn đến cầu nguyện tại bức tường “than khóc” để xin Đấng Cứu Đô mau đến. Nhưng đối với người Kitô hữu thì Đấng Cứu Thế đã đến trần gian từ hơn 2,000 năm rồi và Ngài đang hiện diện giữa chúng ta trong phép Thánh Thể.

Người Kitô hữu biết Chúa sẽ đến trần gian lần thứ hai trong ngày cánh chung nghĩa là ngày Chúa đến để phán xét? Vậy có phải chúng ta trông chờ Chúa đến trong ý nghĩa đó? Chắc là chẳng có mấy ai mặn mòi với việc trông chờ cái ngày mình bị xét xử. Vậy tại sao Gíao hội lại đưa mùa Vọng vào niên lịch phụng vụ? Hẳn là vì Giáo hội muốn chúng ta có thời gian suy tư để chuẩn bị đón mừng Chúa trong ngày đại lễ Gíang sinh.

Chúa thực sự đã đến trong trần gian nhưng phải thực thà mà nói rằng nhiều lúc ta đã sống như thể không có Chúa hay là cho dù biết rõ có Chúa nhưng đã lãng quên thậm chí còn khước từ Ngài bằng lối sống chỉ biết chạy theo tiếng gọi của tiền tài, danh vọng, thú vui trần tục … bất chấp cả những hành động gian ác. Mùa vọng là thời điểm để người tín hữu kiểm điểm lại cách sống hầu đem Chúa trở lại trong tâm hồn của mình.

Mùa Vọng cũng là lúc ta cần lưu tâm đến lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền hô “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Trong cuộc sống của mỗi con người có biết bao nhiêu thói hư tật xấu cần phải dẹp bỏ, có biết bao nhiêu lầm lỡ, sai quấy cấn phải sửa lại. Dọn dẹp một đoạn đường cho sạch sẽ, sửa chữa cho một con đường trở nên bằng phẳng, ngay thẳng thì dễ nhưng uốn nắn con tim, đổi mới tâm hồn thật không dễ dàng chút nào nếu không có một khoảng thời gian tạm tách rời khỏi cuộc sống bon chen để tâm hồn được lắng đọng và tự vấn lương tâm để rồi đi đến quyết tâm hoán cải.

Đón Chúa cách có ý nghĩa cũng là nghĩ đến tha nhân, là đem sự yêu thương và tình bác ái đến với họ. Liệu có đẹp lòng Chúa không khi ta tham dự tĩnh tâm, xưng tội rước lễ rất sốt sắng trong mùa Vọng nhưng trong lòng lại chất chứa sự kiêu căng, ganh tỵ, hận thù? Liệu việc đón Chúa trong mùa Giáng sinh có còn ý nghĩa không khi ta không tiếc tiền bạc trong việc ăn xài nhưng lại dửng dưng trước cảnh khổ của người khác, những người cùng khổ mà chỉ cần một phần nhỏ trong số tiền tiêu xài không thực sự cần thiết của ta cũng đủ làm cho họ ấm lòng?

Sau hết, dù muốn hay không muốn, mỗi người Kitô hữu cũng phải chấp nhận có hai cuộc sống. Cuộc sống hiện tại và cuộc sống đời sau. Cuộc sống hiện tại thì ngắn ngủi và chỉ là tạm bợ so với cái vĩnh cửu của cuộc sống đời sau. Cuộc sống của con người ở trần gian thật mong manh như hoa sớm nở tối tàn. Thân phận con người thật là mỏng dòn, nay còn mai mất. Mùa Vọng nhắc nhở mỗi người Kitô hữu về ngày Chúa sẽ đến. Mặc dù trong sách Tin Mừng của thánh Gioan đã viết “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17), người Kitô hữu cũng phải sống làm sao để khi gặp Chúa sẽ thấy hạnh phúc chứ không phải run sợ trước mặt Ngài.

Nếu hiểu mùa Vọng là mùa sám hối, là từ gĩa cuộc sống của người con “hoang đàng” để trở về với Chúa. Nếu hìểu Giáo hội muốn dùng mùa Vọng để thức tỉnh người tín hữu phải sửa chữa con đường “tâm hồn” cho ngay thẳng. Nếu mùa Vọng là lúc cần thể hiện tình thương và lòng bác ái của Kitô giáo thì mùa Vọng không chỉ kéo dài trong 4 tuần lễ và cũng không kết thúc vào ngày lễ Gíang sinh mà mùa Vọng cần phải được kéo dài trong suốt cả cuộc đời của mỗi người Kitô hữu.

Trang nhà

Mùa Vọng