Lễ Đêm
Vọng Phục sinh
Đã có một thời
người ta tưởng rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có một lần người ta
lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và
cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là nấm mồ
chôn vùi Thiên Chúa. Nhưng rồi cho dù nhân loại có tốn bao nhiêu
giấy mực, có tốn bao nhiêu công sức bỏ vào các công trình nghiên cứu
đồ sộ để loại trừ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa
vẫn hằng hữu. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong thế giới quanh ta và
trong lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn hiện diện như là một
sự thật hiển nhiên mà chẳng có gì có thể che lấp được. Sự thật hiển
nhiên đó được chứng tỏ qua các tôn giáo, qua các lễ nghi thờ tự
phong phú nơi các dân tộc qua mọi thời đại. Có thể nói “nơi nào có
con người là nơi đấy có những cách biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa
khác nhau”. Thế nên, niềm tin vào Thiên Chúa đã gắn liền với bản
tính con người. Con người là loài vật duy nhất có khả năng nhìn nhận
Thiên Chúa và bày tỏ những hình thức tôn thờ Ngài. Đó là một chân lý
mà không ai có quyền bác bỏ nơi anh em của mình. Đó là quyền tự do
bất khả xâm phạm của con người mà những ai có lương tri đều phải
nhìn nhận và tôn trọng.
Cách đây hơn hai
ngàn năm, những quan chức Do Thái đạo lẫn đời đã từng tưởng rằng:
cái chết của Chúa Giê- su sẽ kết thúc mọi lời rao giảng của Ngài,
kết thúc mọi công trình mà Ngài đã xây dựng trong suốt ba năm rao
giảng Tin mừng. Chính những người Do Thái tưởng rằng sau cái chết
của Giê su thì mọi sự sẽ tan rã như thân xác của Ngài cũng sẽ tan rã
theo quy luật của thiên nhiên. Thế nhưng điều đó đã không xảy ra.
Cửa huyệt đã bị bật tung. Huyệt lạnh chỉ còn tấm khăn liệm. Thân xác
của Ngài không tan rã nhưng đã phục sinh và hiện ra với nhiều người.
Sự Phục sinh của Ngài đã quy tụ lại tất cả các môn đệ trở về với mái
nhà xưa, mái nhà tiệc ly, mái nhà của tình thầy trò, của tình hiệp
nhất bằng hữu. Các tông đồ hôm qua đang tan nát cõi lòng vì Thầy đã
chết hôm nay họ lại bừng lên một sức sống mới khi nghe tin Chúa đã
sống lại. Sức sống mới đó càng trào dâng khi chính các ngài đã nhìn
xem thấy Thầy sống lại và hiện ra với họ. Sức sống mới đó càng mãnh
liệt hơn khi chính họ được nghe Chúa nói: “Tại sao các ngươi lại đi
tìm kẻ sống nơi kẻ chết. Chúa đã sống lại”.
Vâng, Chúa đã sống
lại, chúng ta hãy vui lên. Ưu sầu hãy đổi thành niềm vui. Thất vọng
hãy nhường lối cho hy vọng được trồi sinh. Các tông đồ sau khi nhìn
thấy nấm mồ đã bị bật tung, các ngài đã quên đi sợ hãi, quên đi ưu
phiền để đem niềm vui Phục sinh đến cho anh em của mình. Lời rao
giảng:”Chúa đã chết và đã sống lại” đã trải rộng khắp muôn nơi và
đến tận cùng trái đất. Bất chấp mọi hiểm nguy, mọi đe doạ của các
thế lực bạo quyền, các tông đồ vẫn trung thành với lời rao giảng về
Chúa đã sống lại. Thánh Phê-rô thì bảo rằng: “Phải vâng lời Thiên
Chúa hay vâng lời vua quan trần thế”. Thánh Phaolo thì nói rằng:
“Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kyto đang sống trong tôi”.
Chính vì những xác tin đó mà các ngài đã vượt qua mọi sợ hãi, mọi
gian nguy kể cả phải đi vào phong ba bão táp, tù đầy và bị giết, các
ngài vẫn hiên ngang, vì tin rằng Chúa đã sống lại đó là niềm hy vọng
và vui mừng của chúng ta, vì nếu chúng ta cùng chịu đóng đinh với
Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại với người.
Ước gì niềm tin
Phục sinh sẽ thay đổi đời sống chúng ta như đã từng thay đổi lối
nghĩ, cách sống của các môn đệ. Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ giúp
chúng ta dám vượt qua những cám dỗ thấp hèn để sống một cuộc đời cao
đẹp hơn. Xin cho chúng ta dám làm chứng cho tin mừng Phục sinh của
Chúa bằng đời sống lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống
thường ngày. Amen