Thứ Năm Tuần Thánh
Xin rửa sạch những bất trung, phản bội
Sự
bất trung và phản bội là những yếu đuối của bản tính con người. Sự
bất trung và phản bội cũng là cách sống của kẻ “ăn cháo đá bát”, của
kẻ thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình. Chúa Giê-su trong
thân phận làm người, Ngài cũng nếm cảnh trần trụi của tình người
thay trắng đổi đen, của sự vô ơn và phản bội của thế gian. Ngài cũng
hiểu nỗi đau của sự bị bỏ rơi, của sự vô ơn của kẻ Ngài đã từng thi
ân. Ngài đã từng tiếc nuối cho kẻ vì danh lợi thú mau qua mà bán rẽ
nhân phẩm của mình, vì chút bổng lộc mà bán đứng anh em. Ngài đã
từng ước mơ: “thà nó đừng sinh ra thì hơn”. Nhưng cuộc đời hôm qua
và hôm nay vẫn còn đó những con người lòng chai dạ đá đã bán đứng
anh em, đã phản bội gia đình, đã bán rẻ phẩm giá của mình để đạt
được danh lợi thú dơ bẩn ở đời. Nước mắt của tình đời thay trắng đổi
đen. Nước mắt của sự cô đơn, bị phản bội và bỏ rơi vẫn rơi trong
kiếp người vốn dĩ là bể khổ, càng khổ thêm vì những người thân thiết
nhất lại phản bội lẫn nhau.
Vợ
chồng phản bội nhau. Anh em chơi xấu nhau. Đồng loại lừa dối nhau đó
là những cách sống đang làm cho thế gian đã gian dối lại càng dối
gian thêm. Đó là cách sống đang giết chết tình người, đang gặm nhấm
con tim của đồng loại.
Thánh
lễ hôm nay vẫn gọi là thánh lễ tiệc ly. Vì nó gợi nhớ lại bữa tiệc
cuối cùng của Chúa Giê-su và các môn sinh. Tiệc chia tay đã buồn lại
buồn thêm bởi sự ngăn cách tình người. Một trong anh em sẽ phản bội.
Một trong anh em sẽ chối Thầy. Và đêm nay anh em sẽ vấp phạm vì
Thầy. Quả thực là buổi chia tay thật buồn. Buồn vì giờ chia tay đã
gần. Càng buồn hơn vì sự phản bội, bỏ rơi của các môn sinh. Thế
nhưng, tình yêu Chúa vẫn mãi mãi tín trung. Ngài vẫn tiếp tục yêu họ
cho đến cùng. Ngài đã thực hiện một dấu chỉ tuyệt vời của tình yêu
thẳm sâu và lòng tha thứ bao dung qua hành vi rửa chân cho các môn
sinh. Một hành vi mà chẳng ai hiểu được. Một hành vi mà Phê-rô cảm
thấy không ổn chút nào! “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con
sao?”. Thế nhưng, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục cúi xuống rửa chân cho
các ông. Ngài không nhằm rửa sạch bên ngoài mà là thanh tẩy cõi lòng
các ông. Ngài muốn rửa đi những lem lấm bụi đời, những toan tính
trần thế. Ngài muốn dùng tình yêu để thanh tẩy tâm hồn các ông mỗi
ngày thêm mới, thêm đẹp hơn. Ngài muốn thanh tẩy tâm hồn các ông
khỏi những mưu đồ bất chính, những thói đời giả tạo, những kỳ vọng
viễn vông. Bao lâu nay các ông theo Chúa nhưng lại nuôi dưỡng tham
vọng quyền bính và bổng lộc trần gian.
Sự
tranh giành vị trí đã xảy ra. Kẻ đòi ngồi bên tả. Kẻ đòi ngồi bên
hữu. Một vương quốc mà chia rẽ thì đâu còn tồn tại. Chúa rửa chân để
các ông cũng sẽ rửa chân cho nhau. Kẻ làm lớn hãy dùng tình yêu để
phục vụ. Hãy dùng tình yêu để hoán cải lòng người. Hãy dùng tình yêu
để sửa lỗi cho nhau. Chính Chúa đã làm gương. Dù biết rằng Giu-đa
phản bội. Dù biết rằng Phê-rô sẽ chối mình. Dù biết rằng các môn đệ
sẽ bỏ Thầy trong lúc gian nguy. Việc Chúa làm lúc này để các ông mãi
ghi khắc trong tim về tình yêu của Thầy. Cho dù đôi chân của các ông
có bước tới tận bùn sâu của lầm lỗi, Chúa vẫn tha thứ. Chúa vẫn tiếp
tục cúi xuống rửa sạch vết nhơ tội lỗi cho các ông. Chúa vẫn cho các
ông cơ hội để làm lại cuộc đời, vì tình yêu của Ngài là tình yêu
thuỷ chung, sắt son vẹn tuyền.
Như
vậy, bài học mà Chúa muốn dạy các môn sinh chính là: “Hãy yêu thương
nhau”. Một tình yêu tha thứ có thể rửa xoá đi những thù hận, có thể
làm sạch mọi vết nhơ của hiểu lầm, bất trung và phản bội. Một tình
yêu khiêm cung thẳm sâu để có thể cúi xuống phục vụ những con người
sẽ bỏ mặc mình trong gian nguy, sẽ chối bỏ mình trong hiểm nguy, sẽ
bán đứng mình vì một chút bổng lộc trần gian. Thế mà, Thầy chí Thánh
đã làm như vậy! Ngài còn mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài mà “Yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy là mặc lấy
tâm tình của Thầy để có lòng bao dung, độ lượng với nhau, để có thể
tha thứ và tha thứ mãi mãi khôn cùng.
Ước
gì những nghĩa cử cao đẹp mà Thầy Chí Thánh Giê-su đã làm luôn tồn
tại nơi gia đình ky-tô hữu chúng ta. Gia đình cần có lòng bao dung
để tha thứ và đón nhận nhau. Gia đình cần có sự khiêm tốn để có thể
cúi xuống phục vụ những con người đang hành hạ mình, đang đầy đoạ
mình bởi thiếu trách nhiệm và đạo đức. Gia đình cần có tình yêu phục
vụ để rửa sạch những toan tính phản bội, những nhẹ dạ tội lỗi của
các thành viên trong gia đình.
Ước
gì từng người chúng ta đừng phản bội lẫn nhau chỉ vì những mối tình
bất chính, những đam mê tội lỗi. Ước gì mỗi người chúng ta biết sống
cao đẹp qua đời sống trung tín, thuỷ chung. Ước gì tình yêu như Thầy
Giê-su sẽ làm cho các gia đình luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc
trong tình Chúa, tình người. Amen
Thứ Sáu Tuần Thánh
Ba cách đón nhận cái chết khác nhau
Chúa
Giêsu đã từng nói: “Được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống,
nào có ích gì”. Thực vậy, có những người khi sống đã được cả thế
gian, nhưng cuối đời họ đã đánh mất tất cả. Mất cả danh dự. Mất cả
bổng lộc. Mất cả người thân và cuối cùng là mất cả mạng sống.
Cuối
năm 2006, toàn thể thế giới đều nghe nói về ba cái chết của ba
nguyên thủ ba quốc gia. Ba người ba cá tính, ba cung cách lãnh đạo
khác nhau. Trước cái chết của họ, có kẻ khóc, có người vui. Có kẻ
ngậm ngùi thương tiếc, có kẻ khai rượu ăn mừng. Điểm chung của họ là
được cả thế gian nhưng rồi họ cũng ra đi tay trắng như bao người
khác.
Người
thứ nhất đó là tổng thống Chilê, Ausgusto Pinochê đã qua đời ngày
10/12/2006. Ông đã cai trị nước Chi Lê từ năm 1973 đến 1990. Các tổ
chức nhân quyền của Chi Lê đã ước lượng dưới quyền thống trị của
ông, có ít nhất 2,100 người bị xử tử vì lý do chính trị, hơn 1,100
tù nhân bị mất tích và khoảng 10,000 tù nhân bị tra tấn trong những
trại tù bí mật ở trong nước. Ông đã bị toà án quốc tế truy tố năm
1998 về tội diệt chủng. Ngày an táng của ông, Đức Hồng Y Karmelic đã
cầu xin Thiên Chúa “quên đi những lầm lỗi của Augusto Pinochê”.
Người
thứ hai đó là tổng thống Geral Ford, tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ.
Ông đã an nghỉ vĩnh viễn vào ngày 26/12/2006. Cuộc đời ông không có
gì vẻ vang, không có chiến tích đánh đông dẹp tây, nhưng ông được
nhìn nhận là người ôn hoà. Ông đã có một hành động thật phi thường
là tha thứ cho cựu tổng tống Nixon khỏi bị truy tố. Ông đã nói rằng:
Ông tha thứ cho Nixon vì quốc gia Hoa Kỳ chứ không phải vì bản thân
Nixon.
Cuối
cùng là cái chết của nhà độc tài Sadam Hussen, cựu tổng thống Iraq.
Ông đã bị kết án treo cổ tử hình vì tội giết người vô tội. Ông là
một người đã được trời ban cho mọi vinh hoa phú
quý
trần gian, nhưng khi chết chỉ có một dây thòng lòng
cuốn
quanh cổ. Dù rằng, ông không chấp nhận bản án, không chấp nhận cái
chết nhục nhã này, nhưng định mệnh đã lấy đi mạng sống của ông khỏi
trần gian.
Ba
nhân vật này đã đi vào cái chết khác nhau. Có người bình thản ra đi.
Có người ra đi nhưng vẫn ôm trong lòng những ray rức lương tâm. Có
người ra đi trong bất mãn tột cùng. Và như vậy, cuộc đời chỉ có giá
trị khi mình biết sống để phục vụ sự sống. Cuộc đời sẽ bị người đời
khinh chê nếu chỉ biết gieo vãi sự chết chóc và kinh hoàng. Sự ra đi
trong thanh thản bình an hay lo âu sợ hãi cũng tuỳ thuộc vào cuộc
sống của chúng ta: nhân đức hay tội lỗi, công bình hay gia dối, hiền
lành hay gian ác.
Cách
đây hơn hai ngàn năm, trên đồi Golgôtha, có ba tử tội đã bị kết án
tử hình trên thập tự giá. Ba tử tội, tuy sinh không cùng năm nhưng
lại chết cùng ngày, cùng tháng. Ba tử tội đã đi vào cái chết thật
khác nhau.
Người
thứ nhất bên tả đã oán hận phận số của mình. Cuộc đời của anh chỉ
biết giết người và cướp của. Cuộc đời anh chỉ lo gom góp cho bản
thân, chỉ nhằm phục vụ bản thân, cuối cùng anh đã ra đi tay trắng
trong uất hận đau thương.
Người
thứ hai bên hữu đã đón nhận cái chết trong khiêm tốn, ăn năn. Anh đã
hoang phí cuộc đời để chạy theo ảo ảnh trần gian. Thế nhưng, anh đã
kịp ăn năn về cả một quá khứ lầm lạc. Anh đã chấp nhận cái chết khổ
hình như một hình phạt xứng với tội lỗi của mình. Anh ra đi trong an
bình của người biết sám hối ăn năn.
Ở
chính giữa là thập giá Chúa Giêsu. Chúa đi vào cái chết như của lễ
đền tội cho nhân sinh. Chúa chấp nhận cái chết vì loài người và để
cứu rỗi loài người. Chúa đã chịu khổ hình không do lầm lỗi của mình
mà vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa đã chết vì tình yêu đối với
nhân loại, đến nỗi đã trở thành khuân mẫu cho mọi tình yêu. Vì
“không có tình yêu nào cao qúy hơn tình yêu dám chết thay cho bạn
hữu”.
Hôm
nay thứ sáu tuần thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình
yêu tự hiến của Chúa Giêsu. Khi mang thân phận của một con người như
chúng ta, Chúa Giêsu đã sống một đời để phục vụ con người, và Ngài
cũng đón nhận cái chết vì con người. Thế nên, tình yêu của Ngài đã
thành bất tử trên trần gian. Thập giá không còn là nỗi ô nhục mà là
một cuộc khải hoàn vinh quang.
Đó
chính là sứ điệp ngày thứ sáu tuần thánh mà Chúa đang mời gọi chúng
ta, muốn trở môn đệ của Chúa hãy vác khổ giá mà
bước
theo Chúa. Hãy sống một đời biết cho đi. Hãy biết dùng khả năng của
mình mà phục vụ sự sống cho đồng loại. Và hãy biết hiến thân mình để
đem lại hạnh phúc cho tha nhân, vì chưng: “được lời lãi cả thế gian,
chết mất linh hồn nào ích gì?”. Amen
Lễ
Đêm Vọng Phục sinh
Thiên Chúa vẫn hằng sống
Đã có
một thời người ta tưởng rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có một lần
người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu
cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là
nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa. Nhưng rồi cho dù nhân loại có tốn bao
nhiêu giấy mực, có tốn bao nhiêu công sức bỏ vào các công trình
nghiên cứu đồ sộ để loại trừ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện.
Thiên Chúa vẫn hằng hữu. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong thế giới
quanh ta và trong lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn hiện diện
như là một sự thật hiển nhiên mà chẳng có gì có thể che lấp được. Sự
thật hiển nhiên đó được chứng tỏ qua các tôn giáo, qua các lễ nghi
thờ tự phong phú nơi các dân tộc qua mọi thời đại. Có thể nói “nơi
nào có con người là nơi đấy có những cách biểu lộ niềm tin vào Thiên
Chúa khác nhau”. Thế nên, niềm tin vào Thiên Chúa đã gắn liền với
bản tính con người. Con người là loài vật duy nhất có khả năng nhìn
nhận Thiên Chúa và bày tỏ những hình thức tôn thờ Ngài. Đó là một
chân lý mà không ai có quyền bác bỏ nơi anh em của mình. Đó là quyền
tự do bất khả xâm phạm của con người mà những ai có lương tri đều
phải nhìn nhận và tôn trọng.
Cách
đây hơn hai ngàn năm, những quan chức Do Thái đạo lẫn đời đã từng
tưởng rằng: cái chết của Chúa Giê- su sẽ kết thúc mọi lời rao giảng
của Ngài, kết thúc mọi công trình mà Ngài đã xây dựng trong suốt ba
năm rao giảng Tin mừng. Chính những người Do Thái tưởng rằng sau cái
chết của Giê su thì mọi sự sẽ tan rã như thân xác của Ngài cũng sẽ
tan rã theo quy luật của thiên nhiên. Thế nhưng điều đó đã không xảy
ra. Cửa huyệt đã bị bật tung. Huyệt lạnh chỉ còn tấm khăn liệm. Thân
xác của Ngài không tan rã nhưng đã phục sinh và hiện ra với nhiều
người. Sự Phục sinh của Ngài đã quy tụ lại tất cả các môn đệ trở về
với mái nhà xưa, mái nhà tiệc ly, mái nhà của tình thầy trò, của
tình hiệp nhất bằng hữu. Các tông đồ hôm qua đang tan nát cõi lòng
vì Thầy đã chết hôm nay họ lại bừng lên một sức sống mới khi nghe
tin Chúa đã sống lại. Sức sống mới đó càng trào dâng khi chính các
ngài đã nhìn xem thấy Thầy sống lại và hiện ra với họ. Sức sống mới
đó càng mãnh liệt hơn khi chính họ được nghe Chúa nói: “Tại sao các
ngươi lại đi tìm kẻ sống nơi kẻ chết. Chúa đã sống lại”.
Vâng,
Chúa đã sống lại, chúng ta hãy vui lên. Ưu sầu hãy đổi thành niềm
vui. Thất vọng hãy nhường lối cho hy vọng được trồi sinh. Các tông
đồ sau khi nhìn thấy nấm mồ đã bị bật tung, các ngài đã quên đi sợ
hãi, quên đi ưu phiền để đem niềm vui Phục sinh đến cho anh em của
mình. Lời rao giảng:”Chúa đã chết và đã sống lại” đã trải rộng khắp
muôn nơi và đến tận cùng trái đất. Bất chấp mọi hiểm nguy, mọi đe
doạ của các thế lực bạo quyền, các tông đồ vẫn trung thành với lời
rao giảng về Chúa đã sống lại. Thánh Phê-rô thì bảo rằng: “Phải vâng
lời Thiên Chúa hay vâng lời vua quan trần thế”. Thánh Phaolo thì nói
rằng: “Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kytô
đang sống trong tôi”. Chính vì những xác tin đó mà các ngài đã vượt
qua mọi sợ hãi, mọi gian nguy kể cả phải đi vào phong ba bão táp, tù
đầy và bị giết, các ngài vẫn hiên ngang, vì tin rằng Chúa đã sống
lại đó là niềm hy vọng và vui mừng của chúng ta, vì nếu chúng ta
cùng chịu đóng đinh với Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại với
người.
Ước
gì niềm tin Phục sinh sẽ thay đổi đời sống chúng ta như đã từng thay
đổi lối nghĩ, cách sống của các môn đệ. Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ
giúp chúng ta dám vượt qua những cám dỗ thấp hèn để sống một cuộc
đời cao đẹp hơn. Xin cho chúng ta dám làm chứng cho tin mừng Phục
sinh của Chúa bằng đời sống lắng nghe và thực thi lời Chúa trong
cuộc sống thường ngày. Amen |