Église en fêtes, Téqui, 1990
Là thời gian hướng về ngày lễ Phục Sinh bắt đầu
với thứ Tư Lễ Tro, một thời gian thiêng liêng phong phú cho các cộng
đoàn Kitô giáo, Mùa Chay với hình thức như hiện nay là kết quả của
quá trình tiến triển lâu dài về lịch sử cũng như phụng vụ, xét về độ
dài thời gian cũng như sự nghiêm ngặt của các quy định.
Nguồn gốc
Nói thật ra, Mùa Chay là một thiết chế của Giáo
Hội không bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai. Đối với các Kitô hữu
thời các tông đồ, mỗi ngày Chúa Nhật là một cử hành biến cố phục
sinh, và mãi cho đến thế kỷ thứ II mới thấy xuất hiện một ngày lễ
đặc biệt dành để tưởng niệm cái chết và phục sinh của Đức Kitô để
rồi sau đó biến thành Tam Nhật phục sinh (Triduum pascal):
thứ Năm Tuần Thánh, thứ Sáu Tuần Thánh và Vọng Phục Sinh.
Biến cố này được chuẩn bị bằng một hay nhiều ngày
ăn chay tuỳ theo miền, thường là từ chiều thứ Năm Tuần Thánh cho đến
sáng ngày lễ Phục Sinh, hoặc ít ra là trong vòng 40 giờ từ lúc Chúa
chịu chết cho đến thời điểm phục sinh. Đến giữa thế kỷ thứ III, ở
Alexandrie việc giữ chay kéo dài suốt Tuần Thánh, và đến cuối thế kỷ
III thì tại Ai Cập cũng đã xuất hiện việc giữ chay kéo dài đến 40
ngày mà mục đích trước hết dường như là sống lại thời gian chay tịnh
của Chúa Giêsu trong hoang mạc cũng như chuẩn bị cho lễ Phục Sinh.
40 ngày
Chẳng bao lâu sau, Mùa Chay 40 ngày của người Ai
Cập đã định hình như là thời gian chuẩn bị cho cái chết và phục sinh
của Đức Kitô và lan rộng ra khắp Giáo Hội. Vào tiền bán thế kỷ thứ
IV, ở Roma đã hình thành một thời gian chay tịnh trong 3 tuần trước
khi cử hành biến cố phục sinh và vào khoảng giữa những năm 354 đến
384 họ cũng đã thêm vào 3 tuần nữa. Như vậy chính xác có 40 ngày (quadragesima)
giữa Chúa Nhật mở đầu Mùa Chay cho đến khi bắt đầu Tam Nhật Thánh (Triduum).
Nhưng vì không ăn chay vào các ngày Chúa Nhật nên
thực tế chỉ có 34 ngày ăn chay trong thời gian này. Cộng thêm ngày
thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng chỉ có 36 ngày. Và cũng vì
muốn chuẩn bị cho biến cố phục sinh bằng cách rập khuôn chính xác 40
ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang mạc nên vào thế kỷ thứ VII
người ta thêm vào 4 ngày còn thiếu, và từ khi ấy người ta bắt đầu
Mùa Chay với thứ Tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay mà sau này trở
thành thứ Tư Lễ Tro. Vào ngày này, các tín hữu ở Roma tụ họp nhau
tại nhà thờ Thánh Anastasie dưới chân đồi Palatin là nơi Đức Giáo
Hoàng công bố mở đầu Mùa Chay; rồi mọi người đi thành đoàn rước đến
nhà thờ Thánh Sabine trên đồi Aventin để cử hành thánh lễ.
Thứ Tư Lễ Tro
Việc xức tro có nguồn gốc từ thực hành thống hối
công khai, một nghi thức bắt buộc dành cho các tín hữu phạm lỗi nặng
hoặc làm gương xấu trước khi họ được chính thức tái hoà nhập cộng
đoàn vào ngày thứ Năm Tuần Thánh, họ được xá tội và được phép rước
lễ trở lại vì trước đó họ bị cấm.
Một trong những thực hành thống hối công khai này
là xức tro trên đầu. Cử chỉ này thịnh hành ở Roma từ thế kỷ thứ IV
và dần dần lan ra các xứ Kitô giáo, rồi nhiều tín hữu tự nguyện xức
tro trên đầu để biểu lộ ý muốn thống hối. Chính các Đức Giáo Hoàng
cũng đã chấp nhận nghi thức này và vào thế kỷ XI thì các ngài đã kết
hợp việc thống hối này với việc bắt đầu Mùa Chay, do đó mà có tên
gọi thứ Tư Lễ Tro và thực hành xức tro.
Là bụi đất, hình ảnh của tội lỗi và sự mong manh
của con người, là những gì còn lại của thân xác sau khi ngọn lửa sự
sống vụt tắt đi (St 3, 19; 18, 27), tro rắc trên đầu mà ngày nay
người ta xức trên trán biểu lộ sự thống hối và tang chế (Is 58, 5;
61, 3; Gr 6, 26). Chính vì thống hối dưới bụi tro và áo mặc áo vải
thô mà dân thành Ninivê nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa (Gn 3)
Linh đạo Mùa Chay
Là thời gian hoán cải dành cho hối nhân, trong
những thế kỷ đầu tiên, Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị cho các
dự tòng chịu phép rửa để được gia nhập cộng đoàn Kitô giáo vào đêm
Phục Sinh, sau khi giữ chay và tiết chế trong suốt thời gian này
cũng như miệt mài cầu nguyện.
Như thế, khi khuyên nhủ các tội nhân công khai
hối cải, Giáo Hội cũng khích lệ toàn thể cộng đoàn thống hối, và khi
nhắn gởi với các dự tòng, Giáo Hội cũng chuẩn bị cho mọi tín hữu
sống lại ân sủng phép rửa của chính mình
Khi chuẩn bị cho mọi người gặp gỡ Thiên Chúa, đối
với các tín hữu, Mùa Chay đã trở thành một hành trình tiến về Thiên
Chúa, một con đường vòng băng qua hoang mạc, một cuộc chiến đấu với
những cám dỗ trong đời sống. Giáo Hội đề nghị chúng ta sống trọn vẹn
cuộc sống Kitô hữu của chúng ta một cách nồng nhiệt hơn trong suốt
mấy tuần hướng về ngày lễ Phục Sinh.
Như đoàn dân của Môisen lang thang nhiều năm dài
trước khi vào Đất Hứa, chúng ta cũng khám phá ra rằng hành trình
tiến về Thiên Chúa, con đường tiến về Nước Trời của chúng ta không
phải là không gặp khó khăn, chướng ngại, thụt lùi, đôi khi có phản
kháng nữa; thế nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện để mang lại cho
ta hy vọng và niềm tin. Khi kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn
trung thành với Chúa Cha trong thử thách cuối cùng, chúng ta sống
kinh nghiệm cuộc vượt qua tiến về Chúa Cha qua sự sống và cái chết,
chúng ta dần tiến về mầu nhiệm của Đức Kitô để hiệp thông vào đấy
một cách sâu xa hết sức có thể.
Làm thế nào để diễn dịch cách cụ thể cuộc hành
huơng tiến về với Thiên Chúa mà mỗi Kitô hữu được mời gọi trong suốt
thời gian Mùa Chay này? Đã có câu trả lời được lập đi lập lại qua
các bản văn phụng vụ ngày Chúa Nhật (và những ngày khác) trong thời
gian chuẩn bị cho biến cố phục sinh: các bài đọc Tin Mừng cũng như
Kinh Tiền Tụng đã dành ưu tiên cho bộ ba này: cầu nguyện, ăn chay và
chia sẻ.
-
Cầu nguyện
Là khoảng không ngút mắt nơi không có sự sống,
hoang mạc mà dân của Giao Ước cũ và chính Đức Kitô đã đi qua đưa
chúng ta đến yếu tính của đời sống, dẫn chúng ta gặp gỡ với Hữu Thể
độc nhất, cội nguồn cho hiện hữu của chúng ta: Thiên Chúa. Là nơi
chốn gợi lên sự vô cùng của Thiên Chúa, chính trong hoang mạc mà
Charles de Foucauld đã tận hiến hoàn toàn cho Ngài qua lời cầu
nguyện. Như thế, hoang mạc và Mùa Chay là nơi chốn và thời gian để
gặp gỡ Chúa trong lời cầu nguyện.
Qua lời cầu nguyện, đời sống chúng ta hướng về
Thiên Chúa, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn mình theo hình
ảnh Đấng Tạo Hoá để trở nên sẵn sàng cho Đức Kitô và cho anh em. Cầu
nguyện là “lương thực hằng ngày” nuôi sống chúng ta bằng tình yêu
của Thiên Chúa, không có nó tâm hồn chúng ta có nguy cơ xa rời ý
muốn của Chúa Cha.
Theo gương các dự tòng vào những thế kỷ đầu tiên
đã toàn tâm toàn ý cầu nguyện cách quảng đại và thực tâm, theo gương
Đức Kitô lui vào trong cô tịch của hoang mạc Giuđa, chúng ta hãy
biến Mùa Chay thành một thời gian gặp gỡ Chúa, chiêm niệm và tạ ơn,
ngợi ca Danh Thánh Chúa và biến đổi tâm hồn.
2. Ăn chay
Là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, đối với dân Israel cũng
như đối với Đức Kitô, hoang mạc đồng thời cũng là thời gian thử
thách, là trận chiến chống lại thế lực sự dữ để không nhường bước
trước thú vui, điều choáng ngợp và quyền lực, ba thần tượng mà con
người thường hy sinh tất cả để đạt cho được. Những cám dỗ này không
ngừng quấy nhiễu chúng ta và là nguồn gốc nhiều sự dữ, ngay từ khi
xuất hiện Mùa Chay, việc từ bỏ những cơn cám dỗ này được diễn dịch
bằng việc ăn chay, một thực hành rất đòi hỏi nhưng lại đạt được
nhiều kết quả thiêng liêng. Khi giảm thiểu những nhu cầu sống để chỉ
giữ lại những gì thiết yếu, việc ăn chay giúp chúng ta trở nên những
người nghèo khó trong tâm hồn (xem Các Mối Phúc), nghĩa là thành
những con người cần đến Thiên Chúa, nhường cho Ngài một chỗ trong
đời sống mình, người nghèo trong Tin Mừng là những người đặt hết
niềm hy vọng vào Chúa, háo hức gặp gỡ với Đức Kitô. Như vậy sự khổ
hạnh và từ bỏ mọi sự rất cần thiết để Thánh Thần Thiên Chúa xâm
chiếm lấy con người mình.
Nếu chay tịnh trước hết có nghĩa là từ bỏ của ăn
thì trong ý nghĩa tận căn hơn nữa ăn chay cũng có nghĩa là từ bỏ
tính ích kỷ, tính cứng đầu và lòng tham lam của chúng ta: “Đây
là những điều bạn phải thực hành khi muốn ăn chay. Trước hết, hãy xa
lánh mọi lời nói và ước muốn xấu xa, thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi thứ
hư không đời này. Nếu giữ được điều đó, việc ăn chay của bạn sẽ nên
hoàn hảo. Sau khi hoàn tất những gì tôi đã viết trên đây, vào ngày
ăn chay, bạn không ăn gì ngoại trừ bánh mì và nước lã và rồi hãy
tính toán giá lương thực mà bạn thường ăn trong ngày ấy, bạn dành
tiền ấy để cho quả phụ, cô nhi hoặc người nghèo … Nếu bạn ăn chay
theo như những điều tôi khuyên nhủ trên đây, hy sinh của bạn sẽ được
Thiên Chúa chấp nhận” (Le Pasteur d’Hermas).
3. Chia sẻ
Ngay từ thế kỷ thứ II, việc ăn chay đã có khuynh
hướng chia sẻ như là một phương tiện giúp đỡ những ai đang túng
thiếu để chúng ta có thể tiến đến gần Thiên Chúa hơn. Thánh Cyprianô
thành Carthage vào thế kỷ thứ III cũng đã để lại những dòng chữ rất
thuyết phục về chủ đề này: “Những người giàu có và dư dật … bạn
sẽ trở nên vàng ròng khi tinh luyện mình qua các công việc vì đức
công bình và làm bố thí … Hãy xem trong Tin Mừng, một bà goá nghèo
đã đi vào trong lời dạy của Thiên Chúa khi bà bố thí giữa lúc thất
vọng và túng bấn. Bà ném vào trong thùng tiền hai đồng xu cuối cùng.
Chúa đã lưu ý và nhấn mạnh về tấm lòng quảng đại của bà và nói: “Bà
goá này đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn mọi người khác” … Đức Giêsu
Kitô muốn chúng ta hiểu rằng của bố thí của chúng ta sẽ đến với
chính Thiên Chúa và rằng những ai bố thí thì đẹp lòng Chúa”.
Chia sẻ cũng là tình yêu tha nhân, nhìn nhận
người khác như đồng loại của mình, nhận ra Đức Kitô trong những
người anh em hèn mọn nhất. Đây là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa của
chúng ta và không thể được diễn dịch đơn thuần chỉ bằng một phong
trào cứu trợ hay phong trào đoàn kết nào đó. Qua sự thiếu thốn và
chia sẻ, chúng ta đáp ứng được giới răn kép của tình yêu: “Ngươi hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi và yêu tha nhân như chính mình”.
Ghi chú:
Khi nói về việc ăn chay, mãi cho đến thế kỷ thứ
IX, tất nhiên là việc giữ chay nghiêm nhặt hơn ngày nay nhưng không
phải là các tín hữu cả ngày không ăn uống gì. Thật ra, người ta phân
biệt:
- Ăn chay đơn giản, kiêng mọi thứ thịt, cả trứng,
phômai, bơ và sữa. Việc ăn chay này kéo dài suốt Mùa Chay, trừ các
ngày Chúa Nhật.
- Ăn chay nhặt một vài ngày nào đó trong thời
gian này, nhất là thứ Sáu và thứ Bảy Tuần Thánh. Trong những ngày
này người ta chỉ dùng một bữa ăn nhẹ duy nhất trong ngày.
Hiện nay, Giáo Hội chỉ buộc kiêng thịt vào các
ngày thứ sáu của Mùa Chay, ăn chay cùng với kiêng thịt vào các ngày
thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh. “Luật kiêng thịt buộc những
người đã 14 tuổi trọn. Luật ăn chay buộc hết mọi người đã đến tuổi
trưởng thành cho tới lúc bắt đầu 60 tuổi” (Giáo luật điều
1252).
Nhưng trọn Mùa Chay vẫn là thời gian thống hối,
các ngày thứ Sáu khác trong năm cũng vậy. Trong những ngày này, “Các
tín hữu chú trọng đặc biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc đạo đức
và việc bác ái, từ bỏ bản thân, bằng cách chu toàn các bổn phận
riêng và nhất là bằng cách giữ chay và kiêng thịt” (Giáo luật
điều 1249). Việc giữ chay và kiêng thịt cũng có thể được thay thế
bằng các hình thức thống hối khác do Hội Đồng Giám Mục quy định
(Giáo luật điều 1253).
Phụng vụ
Sự thống hối của Mùa Chay được biểu lộ ra bên
ngoài qua màu lễ phục phụng vụ (màu tím) và không đọc kinh
Allêluia và kinh Vinh Danh trong thánh lễ và các giờ
kinh. Ngày xưa, việc đánh đàn trong nhà thờ hoàn toàn bị bãi bỏ
trong thời gian này, ngày nay người ta hết sức giảm thiểu, chỉ đệm
đàn để hát.
Một nốt nhạc vui đột nhiên cắt ngang những ngày
thống hối này: đó là ngày Chúa Nhật Vui (Laetare), hay Chúa
Nhật thứ tư Mùa Chay với lễ phục màu hồng thay cho màu tím. Nguyên
thuỷ của ngày này được tìm thấy trong nghi thức trao ban Tín biểu
đức tin (kinh Tin Kính) cho các dự tòng vào ngày thứ Tư sau Chúa
Nhật thứ tư Mùa Chay. Vì thế, niềm vui của Giáo Hội đã được biểu lộ
trong phụng vụ ngay từ ngày Chúa Nhật vì mình sắp được thâu nhận
những tín hữu mới. Lý do thật sự của ngày Chúa Nhật Vui (Laetare)
– mà tên gọi xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Laetare
Jerusalem – Hãy vui lên hởi Giêrusalem) – sau đó đã bị lãng
quên để rồi mang lấy một ý nghĩa khác là “để an ủi cho các tín
hữu khỏi bị ngã lòng nản chí vì nỗ lực kéo dài trong Mùa Chay và
giúp họ tiếp tục chịu đựng những hạn chế với tâm hồn thanh thản và
nhẹ nhàng” (Giáo Hoàng Innôcentê III, 1216).
Bài đọc các ngày Chúa Nhật Mùa Chay
Hướng về ngày lễ Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa
trong 5 Chúa Nhật Mùa Chay (Chúa Nhật thứ sáu là Lễ Lá và Thương
Khó) được diễn dịch bằng cách gợi lại những giai đoạn lớn trong hành
trình của nhân loại tiến về ngày Phục Sinh của Đức Kitô:
- Những giao ước nguyên thuỷ (Năm A: St 2, 7-3,
7; Năm B: St 9, 8-15; Năm C: 26, 4-10)
- Abraham (Năm A: St 12, 1-4; Năm B: St 22, 1-18;
Năm C: St 15, 5-18)
- Môisen (Năm A: Xh 17, 3-7; Năm B: Xh 20, 1-17;
Năm C: Xh 3, 1-15)
- Đất Hứa (Năm A: 1 Sm 16, 1-3; Năm B: 2 Sb 36,
14-23; Năm C: Gs 5, 10-12)
- Các ngôn sứ (Năm A: Ed 37, 12-14; Năm B: Gr 31,
31-34; Năm C: Is 43, 16-21)
Chủ đề của các bài Tin Mừng:
- Cơn cám dỗ và sự biến hình của Đức Kitô trong
hai Chúa Nhật đầu tiên theo một trong ba Tin Mừng Nhất Lãm.
- Giáo lý về bí tích rửa tội trong ba Chúa Nhật
còn lại của năm A (Ga 4, 5-42; Ga 9, 1-41; Ga 11, 1-45)
- Thập giá, dấu hiệu tôn vinh của Đức Kitô, trong
ba Chúa Nhật còn lại của Năm B (Ga 2, 13-25; Ga 3, 14-21; Ga 12,
20-33)
- Lòng thương xót của Chúa kêu mời hối cải trong
ba Chúa Nhật còn lại của Năm C (Lc 13, 1-9; Lc 15, 1-32, Ga 8, 1-11)
Cuối cùng là các bài thánh thư được chọn lựa để
làm rõ nghĩa cho bài Tin Mừng hay bài trích Cựu Ước.
chuyển ngữ
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Trích “Bản Thông Tin” giáo phận Qui
Nhơn, số tháng 2/2011 |