Kính mời quý độc
giả ôn lại lịch sử và ý nghĩa Mùa Chay.
Ngày
Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng
thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời
Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua
biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày
Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và
ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1.
Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy
luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau:
"Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ
Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn
chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của
Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay
thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong
cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro
và xức tro.
Trong truyền thống
phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng,
và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này
là "Ðầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày"
(Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời
Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm
phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ
một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống
hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi
thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo
hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân
công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều
biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này
bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn,
họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra.
Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân
công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng
thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm
mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ
bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó
và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm
Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được
Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay,
sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng
đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại
Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số
nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương
cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan
Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế
thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn
giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh
nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh
tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép
tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là
có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro
như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11,
cũng tại Rôma, Ðức Giáo hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà
thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó
tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi
đi kiệu, Ðức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả
đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi
đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo hoàng đọc lời xá giải
và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro
và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu
Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ
mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh
lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư
Lễ Tro, Ðức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ
thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ
nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ
Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp
Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì
hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công
đồng Benevento
(Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi
trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân
cát bụi sẽ trỏ về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá
đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước
công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi
làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970,
khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành
sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có
thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám
hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm
vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc
canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong
hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai
khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con
khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận
lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và
nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của
Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có
một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa
việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước,
việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng
thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân
Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta
là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25,
34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống
các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự
chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ,
các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với
chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành
Tours
bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm
chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong
ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải
thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các
tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình
thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta
nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó
là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do
tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh
Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi.
Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả
qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360
độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và
tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng.
Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả
nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ
Tro.
Cùng với một số
biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím,
không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không
dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính
cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ
nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín
hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi
của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra
cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa
Chay.
Hành trình đó là
thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác,
tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân
phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở
về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc
này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi
Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ
Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công
cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương,
vv... không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi
thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in
khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho
mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu
lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro. |