Đáp:
Anh Xuân mến,
trước tiên chúng ta cần làm sáng tỏ khái niệm “cúng tổ nghề” theo phong tục
tập quán của ngừoi Việt Nam.
Theo Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổ nghề (hay
Tổ sư) là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và
truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là
người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là tổ nghề. Tổ nghề thường là
những người có thật, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng
tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.
Các nghề đều
có tổ nghề, có khi nhiều người là tổ cùng một nghề, nhưng cũng có khi một
người là vị tổ của nhiều nghề khác nhau
Thờ tổ nghề
được coi là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam,
thể hiện sự biết ơn những vị sáng lập, mở mang tri thức ngành nghề cho nhân
dân, di dưỡng đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Những người
làm nghề thường sinh sống quần tụ với nhau thành nhóm nghề, phường nghề,
làng nghề. Biết ơn những vị sáng lập truyền nghề cho mình, họ thờ phụng các
vị tổ của nghề mình đang làm. Có thể lập bàn thờ tổ nghề tại gia, và vào
ngày tuần tiết, sóc, vọng,
giỗ
tết, đều
có cúng cấp. Nhưng phổ biến hơn cả là các phường nghề, làng nghề lập
miếu,
đền,
đình riêng
để thờ tổ nghề riêng của nghề mà phường, làng mình đang làm. Đặc biệt, nhiều
vị tổ nghề còn được thờ làm
thành hoàng
làng.
Trong một
năm, lễ cúng tổ nghề quan trọng nhất là nhằm vào ngày kỵ nhật của vị tổ
nghề, đối với những vị mọi người đều biết hoặc là một ngày nhất định mà mọi
người trong phường, trong làng cùng theo một nghề kể là ngày kỵ nhật của tổ
nghề mình.
Như vậy, có
thể khẳng định việc cúng tổ nghề không là một hành vi mang tính tôn giáo,
nên đó không không được hiểu là việc tôn thờ ngẫu tượng. Việc cúng tổ nghề
có thể được coi như hành vi mang tính truyền thống văn hoá về việc di dưỡng
đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Hội Đồng Giám
Mục nói gì về việc nầy?
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã ra thông cáo nhân cuộc Hội nghị tại Đà Lạt vào
các ngày 13 và 14-6-1965: “Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải
giữ đức tin Công giáo toàn vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát
triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa ,
gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự
cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này.
Từ chỗ nhận
thức này, các Giám Mục chủ tọa Khoá Hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn
quốc, tại Nha Trang từ ngày 12 – 14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho
phổ biến và thi hành trong toàn quốc:
1.
“Nhiều hành vi, cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo,
nhưng nay vì sự tiếp xúc bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi
nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối
với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có
tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo hội Công giáo chẳng những
không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho chúng được diễn tả bằng
những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý
nghĩa thế tục rõ ràng, là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính
hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo hình, ảnh,
dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ giỗ…) thì
được thi hành và tham dự cách chủ động.
Bàn thờ Gia
Tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình,
miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn-bạch…
2. Việc đốt
nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường
thờ Tổ Tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ
cũng là ngày ‘Kỵ nhật’, được ‘cúng giỗ’ trong gia đình theo phong tục địa
phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã…, và
giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết
ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4.
…….
5.
……..
6. Được tham
dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng,
để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc,
hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các ‘yêu
thần, tà thần’.
Trong trường
hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích
qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải
thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong
tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không
phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng
truyền ‘Phải thảo kính cha mẹ’, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên
Chúa”.
Như thế anh
có thể tham gia nghi thức cúng tổ nghề, bày mâm cõ để cúng tổ, nhưng phải
tránh mọi hành vi mang tính tín ngưỡng và mê tín dị đoan, như đốt vàng mã,
sụp lạy….
Thân ái chào
anh |