Đáp:
Xin chân
thành cám ơn Chị đã nêu lên những thắc mắc cụ thể và hữu ích.
Chúng tôi rất thông cảm những khó khăn Chị đang phải đối diện
trong việc hôn nhân. Chúng tôi xin góp ý như thế này:
Chúa Kitô
thiết lập Giáo Hội để chuyển thông ơn Cứu Chuộc cho con người.
Để đạt mục đích đó, Ngài cũng ban cho Giáo Hội một số quyền hành
không phải để làm thiệt hại ai nhưng để giúp ích cho các phần tử
của Giáo Hội. Với quyền bính đó, Giáo Hội đã thiết lập những
khoản luật để hướng dẫn đời sống của tín hữu nhằm đạt được mục
đích sống: phần rỗi đời đời. Vậy trong luật liên quan đến hôn
nhân Giáo Hội cũng đã qui định những ngăn trở có ý giúp cho các
con cái của mình ý thức được sự quan trọng của Đức Tin. Giáo Hội
không muốn các tín hữu mất hay có nguy cơ mất Đức Tin.
Luật về hôn
phối qui định rằng: Người Công giáo không được kết hôn với người
chưa được chịu phép rửa tội. Tuy nhiên, Giáo Luật cũng trù liệu
việc ban phép chuẩn cho những trường hợp đặc biệt nếu chấp nhận
một số điều kiện (xem Giáo Luật Ðiều 1086). Do đó điều luật này
không phải là một luật cấm tuyệt đối nhưng nếu có những lý do
chính đáng (ví dụ hai người không thể bỏ nhau được) đương sự có
thể xin phép chuẩn nơi tòa Giám Mục. Muốn được phép chuẩn phải
có điều kiện:
"Nếu có lý do chính đáng và hợp lý,
Bản Quyền sở tại có thể ban phép ấy; tuy nhiên, đừng nên ban
phép khi chưa hội đủ những điều kiện sau đây:
1. Bên công giáo phải tuyên bố sẵn
sàng xa tránh mọi nguy cơ làm tổn thất Ðức Tin, và hứa thành
thật sẽ làm hết mọi sự có thể để con cái được rửa tội và giáo
dục trong Giáo Hội công giáo.
2. Vào lúc thuận lợi, phải cho bên
kia biết những lời hứa mà người công giáo phải giữ, để chính họ
được thực sự ý thức về lời hứa và bổn phận của bên công giáo.
3. Cả hai bên phải được giáo huấn
về các mục đích và đặc tính cốt yếu của hôn phối, và không bên
nào được loại bỏ các điều ấy.
Hội Ðồng
Giám Mục có nhiệm vụ quy định cả về cách thức làm tờ công bố và
tuyên hứa mà luật đòi hỏi, lẫn về thể thức để những lời công bố
và tuyên hứa ấy được bảo đảm ở tòa ngoài, và được thông báo cho
bên không công giáo" (GL Ðiều 1125,1126).
Giáo Hội không bắt buộc ai vào đạo,
trái lại còn ngăn cấm, không cho phép ai được ép buộc người khác
theo đạo:
"Mọi người
có bổn phận phải tìm kiếm chân lý liên quan đến Thiên Chúa và
Giáo Hội. Một khi đã biết được chân lý, họ có quyền lợi và bổn
phận theo luật Chúa phải ôm ấp và tuân theo.
Không ai
được phép cưỡng bách người khác chấp nhận đức tin công giáo trái
với lương tâm của họ" (GL Ðiều 748).
Vì lợi ích của người tín hữu,
Giáo Hội tìm mọi cách để họ được giữ vững đức tin. Khi qui định
những điều luật này, Giáo Hội không có ý kỳ thị tôn giáo tuy
nhiên Giáo Hội xác tín rằng Đạo Công giáo là đạo thật và Giáo
Hội có bổn phận phải bảo vệ đạo thật ấy. Tự do tôn giáo không có
nghĩa đơn giản là đạo nào cũng như đạo nào. Nếu đạo nào cũng như
nhau thì đâu cần phải chết để bảo vệ đức tin của mình.
Việc giữ đạo không phải chỉ giới
hạn vào việc đi nhà thờ, đi dự Thánh Lễ, nhưng tôn giáo còn chi
phối cả đời sống, mọi sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử, chọn lựa.
Nếu chúng ta quan niệm tôn giáo là điều quan trọng thì cũng cần
phải đắn đo, suy tính trong việc chọn một người bạn đời của
mình. Ta sẽ chung sống với họ cả đời trong khi đạo ai người ấy
giữ đâu có phải là truyện đơn giản, dễ dãi. Tôi hy vọng rằng một
ít lời bàn giải trên đây giúp Chị suy nghĩ kỹ hơn về vấn đề này.
Chị nên can đảm, thành thực tự hỏi: Tôn giáo có quan trọng
không? |