Giải Đáp và Hướng Dẫn: 
Trung tâm tư vấn sức khỏe

Bệnh Parkinson. 

Không biết bắt đầu tự bao giờ, mà trong việc nghiên cứu y khoa học, có một tập tục lấy tên người khám phá ra sự việc để đặt cho kết quả công tŕnh nghiên cứu của người đó.

Vi khuẩn gây ra bệnh lao mang tên vi trùng Koch, là tên của bác sĩ người Đức Robert Koch (1843-1910) người đă khám phá ra vi khuẩn này vào năm 1882, bệnh phong mang tên bác sĩ người Na Uy Gerard Hansen (1841-1912), phương pháp khử trùng bằng sức nóng mang tên nhà bác học Louis Pasteur (1822-1895) của Pháp...và cả trăm tên riêng khác. Thật là một vinh dự cho các nhà nghiên cứu và cũng là để tỏ ḷng tri ân của quần chúng đối với các vị này..

Bệnh Liệt Rung thường được gọi nhiều hơn với tên Bệnh Parkinson. Parkinson là tên của vị bác sĩ giải phẫu người Anh, James Parkinson, sinh năm 1755 và mất năm 1824.

Năm 1817, ở tuổi 62, ông xuất bản tác phẩm “Eassay on the Shaking Palsy”, diễn tả rơ ràng hơn về những cơn rung của một số bệnh nhân mà các thầy thuốc đương thời nói tới. Ông thấy rằng, người bệnh bắt đầu có cơn rung giật cách hồi ở một chi, rồi cơn rung trở nên không kiểm soát được. Khi người bệnh thay đổi vị trí bất th́nh ĺnh th́ cơn rung ở chi đó ngừng để rồi lại rung ở chân hoặc cánh  tay phía bên kia. Ông cũng nhấn mạnh tới sự liên hệ giữa rung với liệt, với bước đi lảo đảo ngắn-đi đâm vầm- (festination), với dáng điệu khom khom lưng, cứng nhắc của người bệnh. Theo ông, liệt chỉ tạm thời dù bệnh có trầm trọng.

T́nh trạng rung của các cơ đă được diễn tả trong các văn bản y học từ nhiều ngàn năm về trước bởi nhiều nhà nghiên cứu như Galen, Leonardo da Vinci, Franciscus de la Boe...

Tiếp nối công tŕnh của Parkinson, nhiều nhà khoa học khác đă công bố các khám phá mới về bệnh rung liệt, cả về nguyên nhân bệnh cũng như về trị liệu. Trước đây, người ta cho rằng liệt rung gây ra do tai biến năo, bệnh của tủy sống, của cơ...Một trăm năm sau khi bác sĩ Parkinon diễn tả bệnh, khoa học đă khám phá ra nguyên nhân chính của Liệt rung. Đó là sự hoại tử của vùng chất xám (substantia nigra) trong năo bộ.

Vào thập niêm 1800, bác sĩ Thần kinh nổi danh Jean M. Charcot của Pháp đă đề nghị đặt tên của bác sĩ Parkinson cho bệnh Liệt Rung.

Parkinson là bệnh thoái hóa dần dần của hệ thần kinh trung ương, thường thấy ở lớp  người ngoài 50 tuổi, rất ít khi thấy ở tuổi trẻ. Nam giới bị bệnh nhiều hơn nữ giới một ít. Bệnh vừa măn tính vừa tăng lên đều đều. Măn tính v́ bệnh kéo dài một thời gian lâu. Tăng đều đều có nghĩa là bệnh trở nên trầm trọng với thời gian. Diễn tiến và các triệu chứng của bệnh thay đổi tùy cá nhân.

Nguyên nhân

Parkinson vẫn c̣n được coi như vô căn (idiopathic), có nghĩa là một bệnh mà nguyên nhân chưa được biết rơ.

Một số yếu tố được coi như có liên hệ với bệnh liệt rung là tác dụng phụ của vài loại thuốc trị bệnh tâm thần (phenothiazine, thioxanthene, reserpine...), viêm nhiễm virus năo, ngộ độc khí carbon monoxide, khoáng manganese, một loại thuốc gây nghiện tổng hợp từ chất gây mê (narcotic), thiểu tuần hoàn năo, tuổi cao, di truyền...

Điều mà y khoa học biết rơ về bệnh Parkinson là: năo bộ người bệnh không sản xuất được chất dopamine.

Dopamine là một trong nhiều chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter), chuyển tín hiệu điện năng giữa các tế bào thần kinh, tới các cơ quan để tạo ra hành động. Các công việc như học hỏi, suy nghĩ, cất bước đi, dơ tay cầm đồ vật... đều do năo bộ điều khiển và chất dẫn truyền thần kinh chuyển mệnh lệnh tới các bộ phận liên hệ để hành động.

Dopamine do một nhóm tế bào năo gọi là substantia nigra xản xuất.

Trong bệnh Parkinson, tế bào của vùng xám đen này bị hủy hoại và  không sản xuất ra dopamine. Các tín hiệu xuất phát từ năo bảo cơ thể khi nào cử động, cử động ra sao... bị gián đoạn, khiến cho người bệnh không khởi sự và kiểm soát được các cử động, dáng điệu... của ḿnh một cách b́nh thường.

Nhưng nguyên do gây ra sự hủy hoại các tế bào của substantia nigra vẫn chưa được biết rơ.

Triệu chứng

Các dấu hiệu của bệnh xuất hiện từ từ, không rơ rệt nên rất khó mà nhận ra và nhiều khi có thể nhần lẫn với các bệnh khác. Thường thường, người nhà hoặc bạn bè lại phát hiện  một vài dấu hiệu sớm ở người bệnh, như nét mặt vô cảm, dáng đi cứng nhắc, rung  bàn tay... Có người thấy cơ bắp cứng, đi lại không vững, mất thăng bằng; có người bắt đầu bằng rung tay, dễ mệt mỏi, bước chân kéo lê, nét mặt thẫn thờ, phát ngôn khó khăn...Người tuổi cao, người yếu sức khỏe cũng có thể có các dấu hiệu này. Cho nên, khó mà xác định thời gian khởi đầu của bệnh.

 Nhưng khi đă tới giai đoạn xa, bệnh Parkinson có một số dấu hiệu chính sau đây:

a.Rung khi nghỉ.

Dấu hiệu này thường thấy ở hầu hết các bệnh nhân Parkinson.

 Đặc điểm của rung là sự chuyển động nhịp nhàng, đều đều, từ 4 tới 6 lần trong một giây, thường là ở bàn tay, khi người bệnh không làm việc, và họ không kiểm soát được.  Đôi khi rung cũng xảy ra ở cánh tay, chân, cằm, mặt, cổ, môi, lưỡi...Cường độ rung thay đổi tùy theo thời gian trong ngày, nhiều hơn khi  căng thẳng tinh thần hay thể chất hoặc ở giữa đám đông người.

b.Cứng cơ

Hầu hết các bắp thịt đều ở trong t́nh trạng căng cứng liên tục, gây khó khăn cho các hoạt động của cơ thể.

Chân cứng  nhắc, bước đi khó khăn, tay  không vung vẩy;  gương mặt lạnh như tiền (như mang mặt nạ), không cảm xúc, không nụ cười, không chớp mắt, khó khăn nhai nuốt nước miếng, thực phẩm,  phát âm không rơ, tiếng nói nhỏ, đều đều, lắp bắp nói lắp.

Mặc dù căng  cứng nhưng các bắp thịt  không bị tổn thương và  vẫn sử dụng được khi tập luyện.

c.Dáng đi cứng nhắc, đầu cúi về phía trước, lưng khom khom, cất bước khó khăn, không quay ḿnh được, đôi khi lật đật bước nhanh để giữ thăng bằng, tránh té ngă..

d.Khó khăn khi bắt đầu cử động,  chậm chạp khi thực hiện các cử động  và mất khả năng điều chỉnh tư thế cơ thể. Nhiều người không làm được các động tác thường lệ như mặc quần áo, cài khuy cúc áo quần, cầm th́a, cầm bát ăn cơm, viết lách, cầm báo để đọc, găi đầu...Đang làm một động tác nào dó, người bệnh bất chợt trơ trơ bất động. Chẳng hạn như đang đi tự nhiên đứng khựng lại, đang nói chợt ngưng, há miệng ú ớ..

Hầu hết bệnh nhân ở trong tâm trạng trầm cảm, lo sợ, tự cô lập, hay quên, thay đổi tính t́nh, dễ dàng có cảm giác sợ sệt, không có sáng kiến...

Họ hay than phiền đau nhức các bắp thịt, táo bón, khó khăn tiểu tiện. Da thường bị viêm, nhờn, tróc, đặc biệt ở mũi, trán, mí mắt, lông mày...

Đang ngồi mà đứng lên, họ thấy chóng mặt, muốn té v́ huyết áp giảm. Họ rất hay bị té ngă v́ mất thăng bằng cơ thể...

Các dấu hiệu của bệnh thay đổi tùy theo từng bệnh nhân. Có người rung, có người chỉ có co cứng cơ ...

Chẩn đoán bệnh

Bệnh được chẩn đoán qua tiền sử, các dấu hiệu lâm sàng, khám nghiệm tổng quát, khám nghiệm thần kinh, thực hiện năo điện đồ, chụp X quang năo bộ bằng MRI (magnetic resonance imaging), PET (positron emission tomography ). PET là phương pháp khá tinh vi, có thể phát hiện ra các sinh hoạt sinh hóa chất, như là dopamine, noradrenaline... của năo mà b́nh thường chỉ biết được khi giải phẫu quan sát tế bào năo.

Tiền sử nhắm vào việc t́m hiểu xem bệnh nhân đă bị chấn thương, tai biến năo, tiếp xúc với các chất độc hại hoặc đă có các bệnh thoái hóa khác.

Thực ra, không có một thử nghiệm hoặc x -quang nào có thể xác định bệnh.

Điều trị

Bệnh Parkinson đang được các nhà nghiên cứu dành rất nhiều công sức, tiền tài để t́m ra các phương thức điều trị, v́ liệt rung gây nhiều khó khăn, trở ngại  cho đời sống người bệnh

Bệnh được điều trị bằng dược phẩm, giải phẫu..Ngoài ra, các phương thức hỗ trợ như chăm sóc, dinh dưỡng, vật lư trị liệu, vận động cơ thể....cũng có vai tṛ quan trọng,

1.Dược phẩm

 Mặc dù chưa có cách trị dứt, một số dược phẩm có thể làm dịu bớt các dấu hiệu của bệnh Parkinson, giúp người bệnh duy tŕ được sinh hoạt hàng ngày. Tuy nhiên thuốc cũng có thể gây ra một vài trở ngại:

-Thuốc có nhiều tác dụng phụ rất khó chịu cho bệnh nhân

-Bệnh nhân có thể trở nên quen với thuốc, cần gia tăng liều lượng hoặc dùng phối hợp nhiều dược phẩm với nhau.

-Thời gian tác dụng của thuốc rất ngắn, nên bệnh nhân phải uống nhiều lần trong ngày

Ngoài ra, thuốc không giải quyết vấn nạn chính của bệnh là sự hủy hoại các tế bào tạo ra chất dopamine của bệnh, cho nên tương lai bệnh khó mà ước đoán. 

Các thuốc thường dùng là:

a.Thuốc để bổ sung dopamine không được sản xuất ở năo, loại levodopa. Vào tới năo, Levodopa sẽ chuyển hóa thành dopamine.

 Levodopa thường được dùng phối hợp với môt loại thuốc khác (carbidopa) để giảm thiểu tác dụng phụ của levodopa và tăng cường hiệu năng của thuốc này.

Tác dụng phụ của levodopa gồm có ngây ngất, giảm huyết áp khi đứng lên, ác mộng, rối loạn vận động, buồn nôn, đau bụng, hồi hộp, đôi khi hoang tưởng ..

b.Thuốc chống sản xuất chất acetylcholine ( anticholinergic drugs như benzotropine, diphenhydramine...) Acetylcholine là chất kích thích cơ cứng và rung nhiều hơn khi dopamine vắng mặt.

Tác dụng phụ thường thấy là khô miệng, táo bón, mờ mắt, mất định hướng, mê sảng...

c.Thuốc nhái tác dụng của dopamine (bromocriptine, perglolide...), giúp dẫn truyền tín hiệu thần kinh mà không cần tới dopamine.

d-Thuốc ngăn men monoamine oxidase (MAO) chuyển hóa dopamine thành chất vô hiệu.   Đó là loại monoamine oxidase inhibitor-B (MAO- B) như thuốc selegiline, Azilect (rasagiline...).

2.Giải phẫu

Giải phẫu được áp dụng cho một số bệnh nhân không đáp ứng với dược phẩm. Giải phẫu có thể là:

a-Cắt bỏ mô bào năo gây ra các cử động hoặc tiết ra các hóa chất bất thường.

b-Giải phẫu cầu nhạt (pallidum): cầu nhạt là một trong nhiều tập hợp đặc của chất sám, nằm sâu trong mỗi bán cầu năo, và có thể gây ra một số cử động bất thường cho bệnh nhân sau nhiều năm dùng thuốc. Phẫu thuật gia sẽ t́m đúng vị trí mô bào này và đốt một cái lỗ nhỏ li ti lên tế bào đó, chặn không cho tế bào gây ra cử động bất thường.

c-Kích thích năo (deep brain stimulation -DBS). Một sợi dẫn điện nhỏ như sợi tóc được đặt vào vùng tế bào năo kiểm soát sự cử động. Dây nối với một thiết bị phát điện nhỏ xíu đặt dưới xương đ̣n gánh. Dây và thiết bị đều nằm ở dưới da. Luồng điện có khả năng giảm các kích thích thần kinh gây ra rung rật và cử động bất thường, chứ không ngăn chặn được diễn tiến của bệnh. Phương pháp này rất hữu hiệu trong một số trường hợp và được dùng khi dược trị liệu thất bại hoặc gây ra nhiều tác dụng ngoại ư. Rủi ro của DBS rất ít  và công dụng kéo dài khoảng 10 năm.

d-Gene trị liệu đang được thử nghiệm và có nhiều triển vọng tốt. Mục tiêu của trị liệu này là thay gene bệnh bằng gene khỏe mạnh, qua trung gian của một vật thể nào đó. Hiện nay các nhà khoa học đang thử dùng một loại virus để làm công việc mang gene lành mạnh này vào năo.

Hỗ trợ, chăm sóc

Bệnh Parkinson đưa đến nhiều trở ngại, khó khăn cho nếp sống của người bệnh.

Họ có khó khăn trong việc ăn uống, tắm rửa, vệ sinh.

Họ đi lại khó khăn, không diễn tả được ư nghĩ lời nói.

Tính t́nh thay đổi bất thường, đôi khi bướng bỉnh đập phá.

 Họ không tự sử dụng thuốc men v́ uống nhiều loại khác nhau và nhiều lần trong ngày..

Và họ cần sự chăm sóc giúp đỡ.

Người chăm sóc hầu như có vai tṛ của nhiều nhà chuyên môn: hướng dẫn chế độ ăn uống, hướng dẫn dùng thuốc, hướng dẫn cách nói, vận động cơ thể, vệ sinh cá nhân....Đây là việc làm cần sự hy sinh của người chăm sóc.

Ngoài ra, bệnh nhân cần giữ hẹn với bác sĩ để theo dơi bệnh t́nh, thay đổi thuốc; tham dự các chương tŕnh vật lư trị liệu, duy tŕ các sinh hoạt xă hội...

Bác sĩ Nguyễn Ư Đức

Texas-Hoa Kỳ