Thương xót như Chúa Cha (Misericordes sicut Pater)
Trong lời Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót do Đức Giáo Hoàng Phanxicô sáng tác,
chúng ta đều đọc: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa dạy chúng con phải có lòng
thương xót như Cha trên trời “ và chính Chúa là “Dung Mạo Lòng Thương Xót
của Chúa Cha”, vì “ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha”.
Chính ánh mắt đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát ông Da-kêu khỏi áp lực
của tiền bạc và tội lỗi, khiến ông tìm gặp lại sự bình an và giao hòa với
tha nhân;
chính lời mời gọi của Chúa đối với ông Mát-thêu, khiến ông quảng đại dấn
thân đi theo Chúa không chút mặc cảm về quá khứ nặng nề của mình;
chính lời nói tha thứ đầy khoan dung của Chúa, khiến cho con người mang
tiếng là tội lỗi như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, không những cảm nhận được niềm
hạnh phúc của con người được tha thứ, mà còn mạnh dạn gia nhập hàng ngũ các
môn đệ của Chúa, quyết tâm theo Chúa đến tận cùng trong cuộc khổ nạn của
Chúa, để rồi được trở nên người diễm phúc loan báo Tin mừng Phục sinh cho
các Tông đồ;
và kỳ diệu làm sao, ánh mắt dịu hiền, bao dung đầy lòng thương xót của Chúa
đã dọi vào người môn đệ Phê-rô sau khi ông đã vấp ngã vì sự yếu hèn của mình,
giúp ông hoán cải mà trở nên con người mới, con người khiêm tốn đón nhận lời
tha thứ, để rao giảng và trao ban lời tha thứ cho mọi người.
Phúc âm theo Thánh Lu-ca đã ghi lại điều lạ lùng: “Tất cả các người thu thuế
và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những
người Pha-ri-sêu và các kinh sư liền xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp
phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15,1-2). Thật ngỡ ngàng! Thật
khó có thể tưởng tượng nổi! Phường tội lỗi lại lui tới và chia sẻ bữa ăn với
Đức Giê-su, như thể là những người bạn của nhau! Để hiểu rõ một cách thâm
sâu mối tương quan kỳ diệu nầy, Thánh sử Lu-ca ghi tiếp ba câu chuyện rất
sống động và cụ thể mà chính Đức Giê-su đã công bố: câu chuyện về con chiên
lạc mất và được tìm thấy (Lu-ca 15,4-7); câu chuyện về đồng bạc bị đánh mất
và được tìm thấy (Lu-ca 15,8-10 ) và nhất là câu chuyện về người cha nhân
hậu, không những giàu lòng thương xót đối với người con thứ hư hỏng, hoang
đàng, mà còn rất mực nhẫn nại yêu thương đối với người con cả cứng cỏi và
quá lý sự (Lu-ca 15,11-32). Các câu chuyện về lòng thương xót cho chúng ta
thấy “Thiên Chúa luôn tràn ngập vui mừng, nhất là khi Ngài tha thứ”.
Đức Thánh Cha không ngần ngại nói rõ với chúng ta: “Nơi những dụ ngôn này,
chúng ta thấy được điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương
xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình
yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ”.
Vì thế “Thương xót như Chúa Cha” phải trở nên câu tâm niệm của mọi thành
phần Dân Chúa trong Giáo Hội, cách riêng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót; đó
chính là trụ cột nâng đỡ Giáo Hội, đồng hành với bước đường hành hương của
các tín hữu, mở ra chân trời bao la rộng lớn cho sứ vụ loan báo Tin mừng đến
với muôn dân, mở rộng tâm hồn của chúng ta hướng đến “những người đang sống
tại những vùng ven xa xôi nhất của kiếp nhân sinh, thường được tạo nên trong
cảnh khốn cùng do chính thế giới ngày nay”.
Hội Đồng Giám mục Việt Nam, trong phiên họp kỳ II năm 2015 tại Toà Giám mục
Xuân Lộc, đã đề nghị Ủy Ban Kinh Thánh chuẩn bị một số bài Lời Chúa về Lòng
Thương Xót, nhằm chia sẻ cho Dân Chúa; vậy xin trân trọng giới thiệu các bài
suy niệm và biên soạn của các thành viên trong Uỷ Ban Kinh Thánh / HĐGMVN và
kính gửi đến quý vị như món quà chân tình của Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Nha Trang, ngày 8 tháng 12 năm 2015
+ Giuse Võ Đức Minh
Giám mục Nha Trang
Chủ tịch UBKT/HĐGMVN
– Bài 1 –
Thiên Chúa chúng ta đầy lòng thương xót
(Lc 1,78)[1]
Lm Vinh-sơn Trần Minh Thực, PSS
Tiêu đề bài viết này là một dạng phỏng dịch của phần đầu
tiên trong Lc 1,78. Chúng tôi dùng từ phỏng dịch, vì có thể nói cách diễn tả
“đầy lòng thương xót” mới chỉ hơi chạm tới được phần nào ý nghĩa của cụm từ
splagkhna eleous(σπλάγχνα ἐλέους) trong bản văn tiếng Hi-lạp. Mỗi danh từ
trong cụm từ này, splagkhnon (σπλάγχνον) và eleos (ἔλεος), gắn liền với một
lịch sử thật dài trong đó Thiên Chúa đã can thiệp, tức là Ngài “viếng thăm”
và “cứu chuộc” (x. Lc 1,68) những con người và dân tộc Ngài tuyển chọn.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của từng hạn từ
trong cụm từ nêu trên, khám phá ý nghĩa của những hạn từ này trong một văn
mạch cụ thể, để rồi thử đọc lại cụm từ này trong bối cảnh hiện tại.
NHỮNG NÉT NGHĨA CỦA CỤM TỪ
Tìm hiểu cụm từ splagkhna eleous
Trong toàn bộ bản văn Hi-lạp Tân Ước, cụm từ splagkhna eleous chỉ xuất hiện
một lần duy nhất tại câu văn mà chúng ta đang tìm hiểu - splagkhna là dạng
đối cách số nhiều của splagkhnon, đi liền theo giới từ dia (διά), ở đây là
giới từ chỉ lí do, còn eleous là dạng thuộc cách số ít của eleos. Hai hạn từ
này diễn tả lòng thương xót theo những sắc thái khác nhau.
Hạn từ splagkhnon xuất hiện 11 lần trong Tân Ước (Lc 1,78; Cv 1,18; 2 Cr
6,12; 7,15; Pl 1,8; 2,1; Cl 3,12; Plm1,7.12.20; 1 Ga 3,17), và có nghĩa là:
1- những phần bên trong cơ thể, ruột gan; 2 - trung tâm cảm xúc, trái tim; 3
-tình yêu, cảm xúc. Những nghĩa trên đây trong các từ điển có thể giúp ta
nhận thấy rằng về căn bản, hạn từ splagkhnoncó nghĩa là ruột, hoặc nội tạng,
bao gồm tim, gan, phổi, là những cơ quan được coi như điều khiển cảm xúc[2].
Nghĩa bóng của từ này, lòng trắc ẩn hay lòng thương xót, hẳn đã nảy sinh từ
nét nghĩa căn bản đó. Như vậy, từ splagkhnondiễn tả mối thương cảm sâu xa
được cảm nhận rõ nét từ tận trong ruột gan, những rung động từ tận tâm can.
Động từ cùng gốc với danh từ này là splagkhnizomai (σπλαγχνίζομαι) xuất hiện
12 lần trong Tân Ước (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 18,27; Mc 1,41; 6,34; 8,2;
9,22; Lc 7,13; 10,33; 15,20), và thường được dịch là chạnh lòng thương.
Từ eleos xuất hiện 27 lần trong Tân Ước (Mt 9,13; 12,7; 23,23; Lc
1,50.54.58.72.78; 10,37; Rm 9,23; 11,31; 15,9; Gl6,16; Ep 2,4; 1 Tm 1,2; 2
Tm 1,2.16.18; Tt 3,5; Hr 4,16; Gc 2,13; 3,17; 1 Pr 1,3; 2 Ga 1,3; Gđ
1,2.21), với nghĩa là lòng tốt, mối quan tâm, lòng thương xót, lòng trắc ẩn,
lòng khoan dung nhân từ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong số 6 lần
danh từ này xuất hiện trong Tin Mừng Lu-ca, tới 5 lần là ở chương 1, trong
đó 2 lần ở trong Bài Ca Chúc Tụng(Lc 1,68-79). Do vậy, Lc 1 có thể được xem
như một bài ca ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như đã nói, trong cụm từ splagkhna eleous, eleous là dạng thuộc cách số ít
và được coi là thuộc cách chỉ phẩm chất(genitivus qualitatis), diễn tả lòng
Thiên Chúa là tấm lòng thương xót[3]. Ở đây, hai từ splagkhnon và eleos, vốn
có những nét nghĩa gần gũi, nhưng đồng thời cũng khác biệt nhau, được dùng
liên kết với nhau khiến cho cụm từ này hàm chứa ý nghĩa vừa sâu sắc, vừa cụ
thể. Cụm từ này khiến ta nhớ tới Hs 11,8 về tình yêu nồng cháy Thiên Chúa
dành cho Dân Ngài:
“Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.”
Đoạn văn này gợi ý cho chúng ta rằng để hiểu rõ hơn lòng thương xót được
diễn tả trong cụm từ splagkhna eleous, ta cần đọc lại một số đoạn văn trong
Cựu Ước.
Xem xét ý nghĩa trong tiếng Híp-ri
Bài Ca Chúc Tụng có hình thức của một Thánh vịnh theo truyền thống Do-thái.
Xuất hiện trong bài ca này, hai hạn từsplagkhnon và eleos cũng bám rễ sâu
trong truyền thống lâu đời này.
Hạn từ splagkhna, dạng đối cách số nhiều, có những nét nghĩa tương đồng với
hạn từ raHámîm (רַחֲמִים), cũng là dạng số nhiều của reHem (רֶחֶם), có nghĩa
là tử cung, các phần nội tạng, lòng thương xót, trắc ẩn (x. St 20,18; 43,14;
Xh 13,2;Đnl 13,18). Chúng ta nhận thấy nét tương đồng của hai hạn từ
splagkhna và raHámîm là ở chỗ chúng đều có nghĩa gốc chỉ một phần trong thân
thể con người, từ đó nảy sinh nghĩa bóng là cảm xúc gắn liền với phần thân
thể ấy. Bản Bảy Mươi (LXX) thường dùng hai hạn từ eleos và oiktirmoi (οἰκτιρμοὶ)
để dịch hạn từ raHámîm. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa, hạn từ splagkhna
gần với raHámîm hơn, và hạn từ splagkhna ở Lc 1,78 dường như là một cách
dịch hạn từraHámîm.
Trong Bản LXX, hạn từ eleos thường được dùng để dịch hạn từ Hesed (חֶ֫סֶד).
Ngoài những nghĩa gần với những nét nghĩa của eleos được kể ra ở trên, Hesed
mang nét nghĩa chính là bổn phận, lòng trung thành (x. St 19,19; 21,23;
Xh15,13; Ds 14,18; Đnl 5,10). Tác giả Walter Kasper đánh giá rằng Hesed là
hạn từ quan trọng nhất giúp hiểu khái niệm lòng thương xót, vì Hesed vượt
lên bên trên bình diện cảm xúc đau buồn trước thân phận con người. Hạn từ
này không chỉ diễn tả một hành động đơn độc, nhưng một tiến trình, một tương
quan, là hồng ân Thiên Chúa ban không, vượt mọi mong muốn và công trạng của
con người[4]. Nói cách khác, Hesed biểu lộ lòng trung thành vĩnh cửu, tuyệt
đối và vô điều kiện của Thiên Chúa[5].
Như vậy, cụm từ splagkhna eleous trong Lc 1,78 có thể xem như phản ảnh cặp
từ raHámîm và Hesed, vừa diễn tả lòng thương xót rất cụ thể và nồng cháy,
vừa cho thấy lòng trung thành bền bỉ và siêu việt của Thiên Chúa. Nhưng để
hiểu cụm từ này, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở bình diện ngữ nghĩa, mà
cần phải mở rộng tầm nhìn để xem xét cụm từ trong văn mạch cụ thể.
TRONG BẢN VĂN Lc 1
Như đã nói, có thể xem Lc 1 như là bài ca lòng thương xót của Thiên Chúa với
những sắc thái phong phú và sâu sắc của một lịch sử vừa mang tính hiện tại,
vừa bao hàm những biến cố trong quá khứ.
Lc 1,50 : “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.”
Hạn từ eleos xuất hiện ở đây, nơi trung tâm của Bài Ca Magnificat (Lc
1,46-55), ở vị trí bản lề, vị trí then chốt, vừa để chúc tụng kì công của
Thiên Chúa trong cuộc đời Đức Ma-ri-a, vừa để ngợi khen lòng trung thành của
Thiên Chúa trải dài nơi muôn con người từ đời nọ tới đời kia.
Trước tiên, Đức Ma-ri-a ca ngợi Thiên Chúa là “Đấng cứu độ” (Lc 1,47), Đấng
“đoái thương nhìn tới” thân phận “nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48), “Đấng Toàn Năng”
đã làm cho ngài “biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Có thể nói tất cả những
cách diễn tả vừa kể trong các câu Lc 1,47-49 là những biểu hiện khác nhau
của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho một con người cụ thể là Đức Ma-ri-a.
Trong cái nhìn như thế, lời chúc tụng ở các câu Lc 1,46-50 có thể tiếp tục
mở rộng đến ông Gia-ca-ri-a, bà Ê-li-sa-bét (x. Lc 1,58), và xa hơn, tới mọi
cá nhân đã được Thiên Chúa “đoái thương nhìn tới”.
Tuy nhiên, thông thường ơn cứu độ được ban cho một người không chỉ vì người
đó, nhưng còn nhằm đến những con người, nhằm đến cả dân tộc. Bài Ca
Magnificat không dừng lại ở những gì Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a, vì lòng
thương xót, tức eleos, của Thiên Chúa cũng là lòng trung thành, tức Hesed,
của Ngài đối với giao ước mà Ngài đã kí kết với dân Ít-ra-en. Lòng trung
thành này được diễn tả một cách cụ thể và đặc biệt ở Lc 1,54 với lối diễn tả
mnēsthēnai eleous (μνησθῆναι ἐλέους)[6], “Ngài nhớ lại lòng thương xót”. Ở
đây, một lần nữa hạn từ eleos lại xuất hiện nhằm diễn tả lòng trung thành,
Hesed, của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa “nhớ lại” có nghĩa là Ngài trung thành
thực thi lời đã hứa[7] với “tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc
1,55).
Như vậy, hạn từ eleos ở Lc 1,50 không chỉ kết nối chiều kích cá nhân và
chiều kích tập thể, quá khứ hiện tại và tương lai, trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa, mà còn cho thấy lòng thương xót và lòng trung thành gắn bó
chặt chẽ, vì là hai mặt của một thực tại, vì chúng là những nét nghĩa khác
nhau của một hạn từ duy nhất, Hesed.
Trong Bài Ca Chúc Tụng (Lc 1,68-79)
Hạn từ eleos xuất hiện hai lần trong Bài Ca Chúc Tụng, ở Lc 1,72.78. Có thể
nói lòng thương xót và trung thành của Thiên Chúa được trình bày trong Bài
Ca Magnificat được mở rộng một cách đặc biệt trong Bài Ca Chúc Tụng. Những
lần hạn từ eleos xuất hiện trong bài ca này dường như để kết nối nhiều yếu
tố khác nhau trong lịch sử cứu độ.
Lc 1,72 diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa một cách rất cụ thể, với lối
diễn tả poiēsai eleos (ποιῆσαι ἔλεος), dịch sát là sẽ thực thi lòng thương
xót[8]. Lối diễn tả này thường được Bản LXX dùng để dịch cách nói `äSâ Hesed
(חֶ֫סֶדעָשָׂה) trong bản văn Kinh Thánh tiếng Híp-ri (x. St 24,12; Tl 1,24;
8,35; R 1,8; 1 Sm 20,8). Việc so sánh như thế cho chúng ta thấy rằng bản văn
Lc 1,72 không chỉ đơn thuần đề cập tới lòng thương xót hay lòng trung thành
trong cách thức hành động của Thiên Chúa, mà ở đây, lòng thương xót, trung
thành, tín nghĩa của Thiên Chúa còn gắn liền với giao ước, cùng với lời “đã
thề với tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 1,73)[9]. Có thể nói Lc 1,72 vừa là trung tâm,
vừa tóm lược phần đầu của Bài Ca Chúc Tụng, Lc 1,68-75, về đường lối, thái
độ thương xót-trung thành-tín nghĩa của “Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en” (Lc
1,68) trải dài trong lịch sử lâu dài, từ Áp-ra-ham qua Đa-vít, trải từ đời
nọ qua đời kia, đồng thời mở ra với hiện tại và tương lai.
Như vậy, ở Lc 1,72, eleos trở thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử cứu độ, dệt
nên cách thức hành động nhân từ và trung tín của Thiên Chúa.
Với Lc 1,78, lòng thương xót và trung thành của “Đức Chúa là Thiên Chúa
Ít-ra-en” trong Lc 1,68-75 chuyển qua một cung bậc khác, vì nó kết nối hai
nhân vật nổi bật vào thời viên mãn của ơn cứu độ[10].
Trong phần thứ hai này (Lc 1,76-79) của Bài Ca Chúc Tụng, kẻ “đi trước Chúa”
(Lc 1,76) và “Vầng Đông” (Lc 1,78) được liên kết với nhau qua cụm từ
splagkhna eleous. Có thể nói với hạn từ splagkhna trong Lc 1,78 - với tất cả
những nét nghĩa cụ thể, nóng hổi kinh nghiệm nhân sinh như phần trên đã
trình bày - lòng thương thương xót của Thiên Chúa đã “đã trở nên xác phàm” (Ga
1,14), trong khi eleos ở đây tiếp tục diễn tả lòng thương xót-trung
thành-tín nghĩa của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa “cho Vầng Đông tự chốn cao
vời viếng thăm ta” (Lc 1,78) có thể hiểu như là kết quả của lòng thương xót
mạnh mẽ vô biên của Ngài, splagkhna eleous.
Một điểm khác nữa cũng cần lưu ý ở đây là Bài Ca Chúc Tụng mang dấu vết của
dạng cấu trúc đóng khung (inclusio), với “Vị Cứu Tinh quyền thế” ở Lc 1,69
và “Vầng Đông tự chốn cao vời” ở Lc 1,78, cùng với động từ
episkeptomai(ἐπισκέπτομαι - viếng thăm) ở Lc 1,68 và Lc 1,78. Đây có thể coi
như một lí chứng thêm vào giúp xác định rằng “Vầng Đông” ở đây nhằm ám chỉ
“Vị Cứu Tinh”, tức là Đấng Mê-si-a, chứ không phải Gio-an Tẩy Giả như một số
học giả đề nghị[11]. Đàng khác, với cách hiểu “Vầng Đông” là chính Đấng
Mê-si-a, tính chất cầu nối giữa hai nhân vật trọng yếu của cụm từ splagkhna
eleous được nhận diện rõ nét hơn, vì điều được loan báo ở đây sẽ triển nở
viên mãn với trình thuật về cuộc hạ sinh của “Đấng Ki-tô Đức Chúa”, liền sau
Bài Ca Chúc Tụng, trong Lc 2,1-20.
Như vậy, cụm từ splagkhna eleous - xuất hiện ở cuối Bài Ca Chúc Tụng với chủ
đề chính là ơn cứu độ và sự giải thoát- vừa là đỉnh cao, vừa tóm kết bài ca
dài về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Lc 1. Không chỉ dừng lại ở đó,
cụm từ này còn đúc kết đường lối hành động đầy lòng thương xót và trung tín
của Thiên Chúa trong suốt lịch sử cứu độ, trải từ đời nọ tới đời kia. Có thể
nói, với Lc 1,78, cụm splagkhna eleous vừa tóm lược lịch sử việc Thiên Chúa
trung thành với lời giao ước trong quá khứ, vừa mở ra chân trời của giao ước
mới.
TRONG BỐI CẢNH HIỆN TẠI
Chúng ta vừa trải qua một hành trình khám phá cụm từ splagkhna eleous dưới
khía cạnh ngữ nghĩa và trong văn mạchLc 1. Thiết tưởng chúng ta không thể bỏ
qua nỗ lực đọc và hiểu cụm từ quan trọng này trong bối cảnh hiện tại.
Lòng thương xót cháy bỏng của Thiên Chúa với chúng ta
Trong các phần trên chúng tôi đã trình bày những ý nghĩa rất cụ thể và rất
hiện sinh của hạn từ splagkhna. Những ý nghĩa này khiến độc giả như nghe
được nhịp đập trong con tim của Thiên Chúa. Nhưng khi quay trở lại với cuộc
sống hiện tại, chúng ta lại như thấy nhịp đập mạnh mẽ ấy dường như chỉ tồn
tại trên mặt giấy của bản văn Kinh Thánh.
Cuộc sống thực tế phơi bày cho chúng ta những thực tại xót xa, liên quan đến
thân phận từng người, thân phận của cả quốc gia, và rộng hơn, cả trên phạm
vi toàn nhân loại. Ở phạm vi cá nhân, những khó khăn trong công việc làm ăn,
trong đời sống gia đình, bệnh tật, và bao nhiêu thứ bất trắc khiến cuộc sống
của mỗi con người không hề dễ dàng. Rộng lớn hơn, trên bình diện quốc gia,
thế kỉ 20 được ghi dấu bằng những cuộc chiến tranh đằng đẵng và đẫm máu. Sau
chiến tranh, hệ thống vận hành mù quáng và lạc hậu đã nghiền nát biết bao
thân phận con người. Hiện tại và tương lai cũng không có gì sáng sủa. Ở tầm
thế giới, thế kỉ 20 là thế kỉ của những cuộc chiến lớn. Thế kỉ 21 bắt đầu
với sự kiện khủng khiếp ngày 11-9-2001. Bên cạnh đó là những cuộc chiến mới
đây, với tổ chức IS, và còn biết bao thiên tai và nhân họa liên tiếp giáng
xuống đầu con người của thời đại chúng ta. Liệu chúng ta còn có thể nói về
lòng thương xót của Thiên Chúa nữa không? Phải chăng con tim cháy bỏng yêu
thương của Thiên Chúa đã ra nguội lạnh, và những hành động đầy lòng thương
xót của Ngài chỉ là chuyện của quá khứ?
Cách chúng ta vài ngàn năm, tác giả Thánh vịnh cũng đã thốt ra những câu hỏi
tương tự như thế:
“Tình yêu Chúa phải chăng nay cạn hẳn
và thánh ngôn chấm dứt đời đời?
Hay Thiên Chúa đã quên thương xót,
vì giận hờn mà khép kín từ tâm?” (Tv 77,9-10).
Cuộc sống trong quá khứ không dễ dàng hơn, cũng không thiếu những tai ương
đủ loại. Con người ở mọi thời đại vẫn luôn phải đối mặt với đủ thứ đe dọa,
đủ loại bất trắc. Liên quan trực tiếp tới cụm từ chúng ta đang tìm hiểu,
những con người cụ thể như Gia-ca-ri-a, Ê-li-sa-bét, Gio-an Tẩy Giả, Đức Ma-ri-a,
cũng phải đối mặt với đủ loại khó khăn của thân phận những người bị trị. Vị
từng được nhắc tới trong Bài Ca Chúc Tụng như là kẻ “đi trước Chúa, mở lối
cho Người” sẽ kết thúc cuộc đời, đầu lìa khỏi cổ (x. Lc 9,9). Còn Đấng được
gọi là “Vầng Đông tự chốn cao vời” còn có kết cục thê thảm hơn: chết treo
trên thập giá (x. Lc 23,33-34). Một điều khác nữa ta cần ghi nhận: những
đoạn Tin Mừng tràn đầy niềm vui và hi vọng mà chúng ta vẫn đọc hằng ngày
được viết ra trong một giai đoạn mà các cộng đoàn Ki-tô hữu bị Đế quốc Rô-ma
bách hại. Cuộc sống và thân phận của các nhân vật trong Kinh Thánh cũng như
những tín hữu đọc Kinh Thánh thời đó không kém bi thảm và bất trắc hơn thân
phận con người trong thời đại của chúng ta. Những cuộc chiến trong thế giới
cổ đại cũng không kém phần tàn bạo và đẫm máu so với thời đại chúng ta. Hơn
nữa, những nhân vật trong Kinh Thánh và các tín hữu đọc Kinh Thánh thời đó
cũng không chúc tụng lòng thương xót của Thiên Chúa một cách dễ dãi và ngây
thơ. Khác với chúng ta, giữa những đau thương và ở những thời khắc bi thảm
nhất của cuộc sống, những con người đó vẫn nhờ ánh sáng đức tin, ánh sáng
chỉ le lói trong đêm tối mù mịt, mà nhận ra lòng thương xót vô biên của
Thiên Chúa. Khi nhìn mọi biến cố, vui cũng như buồn, tai ương cũng như hạnh
phúc, trong ánh sáng ơn cứu độ của Thiên Chúa, người ta có thể nhận ra lòng
thương xót hải hà của Thiên Chúa trong mọi sự. Và như vậy, họ vẫn như cảm
nhận được nhịp đập nóng hổi nơi con tim đầy lòng thương xót của Thiên Chúa
qua mọi biến cố hằng ngày. Đó có thể là điều mỗi chúng ta đang cần và đang
thiếu: nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc sống hiên tại, tức
là đọc ra được “dấu chỉ của thời đại”[12].
Thiên Chúa vẫn luôn thành tín với lời Ngài đã hứa
Khi nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn luôn đầy lòng thương xót, chúng ta đồng thời
cũng nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với lời hứa “dành cho tổ phụ
Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55). Chúng ta như thấy được
lòng trung tín ấy qua “dấu chỉ” những lần Thiên Chúa “viếng thăm và cứu
chuộc” (Lc 1,68).
Chúng ta không thể phủ nhận rằng những tai ương đủ loại, với những nỗi đau
khổ tột cùng của những người vô tội, vẫn luôn là một thử thách, một nan đề,
với những người dám suy nghĩ về đức tin của mình một cách nghiêm túc. Tác
giả Walter Kasper gọi tên tất cả những tai họa như chiến tranh, bệnh tật,
các loại thiên tai hay nhân họa đầy rẫy trong xã hội hiện đại như là những
“dấu chỉ của thời đại”. Vì con người đã từng mang ảo tưởng rằng việc phủ
nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc nhẹ hơn, phủ nhận lòng thương xót của
Ngài, sẽ giúp tìm ra hướng giải quyết cho nan đề nêu trên. Kết quả là họ rơi
vào sự trống rỗng không lối thoát, hoặc sa đà vào những chủ thuyết lệch lạc,
khiến cho đau khổ nơi người vô tội lại như chồng chất và còn trở nên kinh
khủng hơn. Cách nào đó, thiếu ánh sáng về lòng thương xót và ơn cứu độ của
Thiên Chúa, con người cảm thấy sự hiện hữu của mình thành bất hạnh và vô
nghĩa[13]. Điều đó có thể là một “dấu chỉ” cho thấy Thiên Chúa vẫn tiếp tục
trung thành “viếng thăm và cứu chuộc” những ai ngước nhìn lên Ngài bằng ánh
mắt tin tưởng, vì: “Đức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa sẽ không
cho phép có sự dữ xảy ra nếu Người không rút được sự lành từ chính sự dữ,
bằng những con đường mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh
cửu.”[14]
Hơn thế nữa, chúng ta còn có thể đọc được “dấu chỉ” về lòng thành tín của
Thiên Chúa đối với lời hứa cứu độ dành cho toàn nhân loại thông qua biết bao
những con người thánh thiện, hữu danh và vô danh, bởi vì hơn ai hết, họ là
những “dấu chỉ” cụ thể và hữu hình về sự hiện diện, lòng trung tín và thương
xót của Thiên Chúa dành cho thế giới này. Trong sứ điệp gửi nước Pháp ngày
29-9-1986, Đức Gio-an Phao-lô II đã nhắc lại lời thánh Gio-an Vi-a-nây: “Nơi
đâu mà những vị thánh đi qua, Thiên Chúa cũng đi qua cùng với các ngài.”[15]
Bên cạnh đó, những tác động mạnh mẽ mà Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục thực
hiện trong thế giới, nhất là trong lòng Hội Thánh vẫn tiếp tục là những “dấu
chỉ” cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong trầm
luân, tai họa và thống khổ, Ngài vẫn thành tín yêu thương và “viếng thăm”
nhân loại. Không phải vô tình mà trong diễn văn khai mạc Công Đồng
Va-ti-ca-nô II, ngày 11-10-1962, Đức Gio-an XXIII đã chỉ chìa khóa cho những
vấn đề của thế giới và Giáo Hội là “phương thuốc lòng thương xót”[16]
Tất cả những “dấu chỉ” đó và còn rất nhiều những “dấu chỉ của thời đại” vẫn
tiếp tục khẳng định với những ai dám đặt niềm in vào Thiên Chúa rằng “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2,4).
Trở lại với cụm từ splagkhna eleous, sau bài tìm hiểu ngắn này, hẳn độc giả
cũng đồng ý với chúng tôi rằng các bản dịch tiếng Việt, và rất nhiều bản
dịch ra các ngôn ngữ khác, chỉ mới hơi chạm tới được bề mặt ý nghĩa của cụm
từ này. Chiều sâu ý nghĩa với cả một lịch sử dài Thiên Chúa “viếng thăm” và
“cứu chuộc” những con người và những dân tộc cụ thể là những điều không thể
dịch được. Thông qua việc tìm hiểu ý nghĩa ngôn từ, ý nghĩa của cụm từ trong
văn mạch, và nỗ lực đặt những ý nghĩa đó trong bối cảnh thế giới hiện đại,
chúng tôi hi vọng độc giả có thể hiểu rõ hơn đường lối đầy thương xót và tín
thành của Thiên Chúa trong lịch sử, để rồi cùng với tác giả Thánh vịnh chúng
ta chúc tụng rằng:
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,1).
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng bản dịch, cách
ghi tên và viết tắt các sách trong bộ Kinh Thánh theo Nhóm phiên dịch Các
Giờ Kinh Phụng Vụ (Nhóm CGKPV), ấn bản năm 2011.
[2] X. Reiling, J., & Swellengrebel, J. L., A Handbook on the Gospel of Luke
(New York 1971), tr. 99; Nolland, J., Word Biblical Commentary: Luke
1:1-9:20. 35A (Dallas 2002) tr. 89; Fitzmyer, J. A., The Gospel according to
Luke I-IX: Introduction, translation, and notes (New Haven – London: Yale
University Press 2008) tr. 386.
[3] X. Bovon, F., & Koester, H., Luke 1: A commentary, tr. 76.
[4] X. Kasper, W., Mercy. The Essence of the Gospel and the Key to Christian
Life (New York – Mahwah 2014), chúng tôi tham khảo bản ebook, III, 1.
[5] Trong Cựu Ước (x. St 24,27.49), lòng trung thành của Thiên Chúa được
diễn tả cách đặc biệt khi hạn từ Hesed (חֶ֫סֶד) đi cùng với ´émet (אֱמֶת).
[6] Trong bản văn Hi-lạp, cụm từ này xuất hiện ở câu 54. Chúng tôi không
hiểu tại sao trong bản dịch của Nhóm CGKPV, cụm từ này lại được chuyển sang
câu 55.
[7] X. Nhóm CGKPV, Kinh Thánh (ấn bản 2011), chú thích b, tr. 2263.
[8] Nhóm CGKPV dịch là “sẽ trọn bề nhân nghĩa”.
[9] X. Nolland, J., Word Biblical Commentary, tr. 87.
[10] X. Bovon, F., & Koester, H., Luke 1 : A commentary, tr. 76.
[11] X. Fitzmyer, J. A., The Gospel according to Luke I-IX, tr. 387.
[12] Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 4.
[13] X. Kasper, W., Mercy. I.1.
[14] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (bản dịch 1997), số 324.
[15] Trích từ trang điện tử:
w2.vatican.va/content/john-paul-ii/fr/speeches/1986/september/documents/hf_jp-ii_spe_19860929_popolo-francese.html,
truy cập ngày 31-10-2015.
[16] Trích từ trang điện tử:
http://w2.vatican.va/content/john-xxiii/it/speeches/1962/documents/hf_j-xxiii_spe_19621011_opening-council.html,
truy cập ngày 31-10-2015. |