Anh em linh mục quý mến,
Vào ngày lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giêsu sắp đến, thứ Sáu ngày 19
tháng Sáu năm 2009 – ngày mà truyền thống dành riêng cho việc cầu nguyện
thánh hóa các linh mục –, tôi đã nghĩ khai mở cách chính thức một "Năm
linh mục" nhân dịp kỷ niệm 150 năm "dies natalis" (ngày sinh) của
cha Gioan-Maria Vianê, thánh bổn mạng của tất cả các cha sở trên thế
giới. [1] Một năm như thế, mà muốn đóng góp vào việc xúc tiến sự dấn
thân canh tân nội tâm tất cả các linh mục để làm cho chứng tá Tin Mừng
của họ trên thế giới hôm nay sâu sắc và mãnh liệt hơn, sẽ kết thúc cùng
vào ngày lễ trọng thể của năm 2010. Cha Sở Thánh họ đạo Ars đã từng có
thói quen nói: "Thiên chức linh mục, đó là tình yêu của thánh tâm
Chúa Giêsu". [2] Kiểu nói cảm động này trước tiên cho phép chúng ta
gợi lên với lòng trìu mến và biết ơn hồng ân bao la là các linh mục
không chỉ cho Giáo Hội, nhưng còn cho chính nhân loại. Tôi nghĩ đến tất
cả các linh mục đang giới thiệu cho các tín hữu kitô và cho toàn thế
giới lễ vật khiêm tốn và thường ngày những lời nói và cử chỉ của Chúa
Kitô, đang nỗ lực gắn bó với Ngài bằng tư tưởng, ý chí, tình cảm và
phong cách của tất cả cuộc sống của họ. Làm sao mà tôi không thể làm nổi
bật sự vất vả tông đồ của họ, sự phục vụ dẻo dai và âm thầm của họ, đức
ái phổ quát của họ được ? Làm sao mà tôi không thể ca ngợi sự trung tín
can đảm của biết bao linh mục mà, cho dầu phải đối diện với những khó
khăn và những sự thiếu thông hiểu, vẫn trung thành với ơn gọi của mình:
ơn gọi "làm bạn của Chúa Kitô", đã lãnh nhận từ Ngài một ơn gọi đặc
biệt, đã được chọn gọi và sai đi ?
Chính tôi vẫn còn sống động mang trong tâm hồn kỷ niệm về vị cha sở đầu
tiên mà tôi đã thực hiện thừa tác vụ linh mục trẻ của tôi bên cạnh ngài:
ngài đã để lại cho tôi mẫu gương về sự tận tụy hoàn toàn với công việc
mục vụ của ngài, đến độ đã qua đời đang khi ngài đang mang của ăn đàng
cho một người bị bệnh nặng. Tôi cũng nhớ đến vô số anh em đồng nghiệp mà
tôi đã gặp gỡ và tiếp tục gặp gỡ, ngay cả trong suốt những chuyến tông
du mục vụ của tôi nơi nhiều nước khác nhau; tất cả đều quảng đại dấn
thân trong việc thực thi hằng ngày thừa tác vụ linh mục của họ. Nhưng
kiểu nói được Cha Sở Thánh sử dụng cũng gợi lên Trái Tim bị đâm thâu của
Chúa Kitô và vòng gai trên đầu Ngài. Và như thế, tư tưởng của chúng ta
hướng đến vô số những hoàn cảnh đau khổ trong đó biết bao linh mục đang
đắm mình, hoặc là bởi vì chính họ chia sẻ kinh nghiệm đau khổ đa dạng
của con người, hoặc là bởi vì họ không được thấu hiểu bởi những người
hưởng ích từ thừa tác vụ của họ: làm sao chúng ta không nhớ đến biết bao
linh mục bị nhạo báng trong phẩm giá của họ, bị ngăn cản thực hiện tác
vụ của mình, thậm chí đôi khi bị bách hại cho đến độ cuối cùng làm chứng
bằng máu mình ?
Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc
đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên
của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.
Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo Hội,
đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của
mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân
huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của
những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa
và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn. Về phương
diện này, những giáo huấn và những mẫu gương của thánh Gioan-Maria Vianê
có thể mang lại cho mọi người một điểm quy chiếu có ý nghĩa: Cha Sở họ
đạo Ars rất khiêm tốn, nhưng với tư cách là linh mục, ngài ý thức là một
ân huệ bao la cho dân của ngài: "Một mục tử nhân lành, một mục tử
theo lòng Chúa mong ước, đó là kho tàng lớn lao nhất mà Thiên Chúa nhân
từ có thể ban cho một giáo xứ, và là một trong những ân huệ cao quý nhất
của lòng thương xót của Thiên Chúa". [3] Ngài đã nói về thiên chức
linh mục như thể không thể dò thấu sự cao cả của ân huệ và nhiệm vụ được
giao phó cho một thụ tạo: "Ô ! Linh mục là điều gì đó cao cả biết bao
! Nếu ngài hiểu mình, thì ngài sẽ chết…Thiên Chúa vâng lệnh ngài: ngài
nói một vài lời thì nghe tiếng ngài, Thiên Chúa từ trời ngự xuống và tự
giam mình trong bánh thánh nhỏ bé…".[4] Và để giải thích cho các
giáo dân của ngài tầm quan trọng của các bí tích, ngài nói: "Nếu
chúng ta không có bí tích Truyền chức thánh, thì chúng ta sẽ không có
Chúa. Ai đã đặt ngài ở đó, trong nhà tạm ? Linh mục. Ai đã đón nhận linh
hồn chúng ta lúc khởi đầu cuộc sống của nó ? Linh mục. Ai nuôi dưỡng
linh hồn và tăng sức mạnh cho nó trên cuộc hành trình ? Linh mục. Ai sẽ
chuẩn bị cho nó xuất hiện trước nhan Thiên Chúa, bằng cách rửa linh hồn
này lần sau hết trong máu của Chúa Giêsu Kitô ? Linh mục, luôn là linh
mục. Và xảy ra là nếu linh hồn chết [vì tội lỗi], ai sẽ làm cho nó sống
lại, ai sẽ làm cho nó thanh thản và bình an ? Vẫn là linh mục… Sau Thiên
Chúa, linh mục là mọi sự…Linh mục chỉ hiểu mình đúng ở trên trời".
[5] Những lời khẳng định này, vọt lên từ tâm hồn linh mục của vị cha sở
thánh thiện, có thể dường như thái quá đối với chúng ta. Tuy nhiên,
chúng biểu lộ sự cao trọng mà ngài dành cho bí tích của thiên chức linh
mục. Dường như ngài đã bị ngập tràn bởi ý thức về một trách nhiệm vô
hạn: "Nếu người ta hiểu rõ linh mục ở trần gian, thì người ta sẽ chết
không phải vì sợ hãi, nhưng vì tình yêu… Không có linh mục, cái chết và
cuộc thương khó của Chúa chúng ta sẽ chẳng có ích gì… Chính linh mục
tiếp tục công trình Cứu chuộc trên trần gian… Dùng để làm gì một ngôi
nhà đầy vàng, nếu anh chị em không có ai để mở cửa ? Linh mục có chìa
khóa của những kho tàng trên trời: chính ngài mở cửa; ngài là vị quản
gia của Thiên Chúa nhân lành, là người phân phát các của cải của Người…
Hãy để một giáo xứ vắng bóng linh mục trong hai mươi năm: ở đó người ta
sẽ thờ lạy các thú vật… Linh mục không phải là linh mục cho mình…ngài là
cho anh chị em". [6]
Ngài đã đến họ đạo Ars, một ngôi làng nhỏ với 230 dân cư, mà vị Giám mục
báo trước là ngài sẽ gặp phải một hoàn cảnh tôn giáo bấp bênh: "Không
có nhiều tình yêu Thiên Chúa trong giáo xứ này, cha sẽ mang nó vào đó".
Bởi thế, ngài hoàn toàn ý thức rằng ngài phải đến đó để nhập thể sự hiện
diện của Chúa Kitô, làm chứng cho sự yêu thương cứu độ của Người: "[Lạy
Thiên Chúa của con], xin ban cho con sự hoán cải của giáo xứ này; con
bằng lòng chịu đau khổ những gì mà Chúa muốn trong suốt đời con !" ,
chính bằng lời cầu nguyện này mà ngài đã bắt đầu sứ mệnh của mình. [7]
Cha Sở Thánh đã hiến mình cho sự hoán cải của giáo xứ của ngài bằng tất
cả sức lực, dành chỗ nhất trong những ưu tư của mình cho việc đào tạo
kitô giáo dân được giao phó cho ngài. Anh em linh mục quý mến, chúng ta
cũng hãy cầu xin Chúa Giêsu ân sủng có thể học phương pháp mục vụ của
thánh Gioan-Maria Vianê ! Những gì chúng ta phải học hỏi trước tiên đó
là sự đồng nhất hóa hoàn toàn bản thân ngài với thừa tác vụ của ngài.
Trong Chúa Giêsu, Con người và Sứ mệnh hướng đến chỗ ăn khớp nhau: tất
cả hoạt động cứu độ của ngài đã và đang là sự diễn tả "Bản Ngã làm
con" ("Moi filial") của Ngài mà, từ đời đời, hiện diện trước nhan
Cha trong một thái độ tuân phục tràn đầy tình yêu với ý muốn của Cha.
Bằng một sự loại suy khiêm tốn nhưng hiện thực, linh mục cũng phải hướng
đến sự đồng nhất hóa này. Vấn đề rõ ràng không phải là quên rằng tính
hiệu lực chính yếu của thừa tác vụ vẫn độc lập với sự thánh thiện của
thừa tác viên; nhưng người ta cũng không thể không biết sự phong nhiêu
đặc biệt được sản sinh do sự gặp gỡ giữa sự thánh thiện khách quan của
thừa tác vụ và sự thánh thiện, chủ quan, của thừa tác viên. Cha Sở Thánh
họ đạo Ars đã tiến hành ngay công việc đồng nhất hóa khiêm tốn và kiên
nhẫn này giữa đời sống thừa tác viên của mình và sự thánh thiện của thừa
tác vụ được giao phó cho ngài, đi đến chỗ quyết định "ở" về mặt vật chất
trong nhà thờ giáo xứ của ngài: Chúng ta có thể đọc thấy trong tiểu sử
đầu tiên của ngài: "Vừa đến nơi, ngài đã chọn nhà thờ làm nơi ở của
mình…Ngài vào nhà thờ trước bình minh và chỉ ra khỏi đó sau Kinh Truyền
Tin buổi chiều. Chính ở đó mà phải tìm kiếm ngài nếu người ta cần đến
ngài".[8]
Sự thổi phồng đạo đức của người tận tâm soạn hạnh cách thánh không được
khiến chúng ta quên đi sự kiện rằng Cha Sở Thánh cũng đã biết "ở" cách
chủ động trong toàn địa hạt giáo xứ của ngài: ngài đã viếng thăm cách có
hệ thống tất cả các bệnh nhân và các gia đình; ngài đã tổ chức những
tuần đại phúc cho dân chúng và những ngày lễ bổn mạng; ngài đã nhận được
và ban phát những tặng vật bằng bạc cho các công trình từ thiện và
truyền giáo; ngài trang hoàng nhà thờ bằng cách trang bị cho nó những đồ
thánh; ngài đã chăm lo cho các bé gái mồ côi của nhà "Providence"
(Chúa Quan Phòng - một Viện mà ngài đã thành lập) và những phụ nữ dạy dỗ
các em; ngài quan tâm đến viêc giáo dục trẻ em; ngài lập nên những hội
và mời gọi giáo dân cộng tác với ngài.
Mẫu gương của ngài thúc đẩy tôi gợi lên những không gian hợp tác mà
người ta phải luôn mở ra hơn cho các giáo dân, mà cùng với họ các linh
mục hình thành dân tư tế [9] duy nhất và các ngài ở giữa họ, vì chức
linh mục thừa tác, "để dẫn dắt họ hết thảy đến sự hiệp nhất trong
tình yêu 'thương mến nhau với tình yêu huynh đệ, coi người khác trọng
hơn mình' (Rm 12,10)".[10] Trong bối cảnh này, nên nhớ làm thế nào
Công đồng Vatican II đã nồng nhiệt khích lệ các linh mục "thành thật
nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá và vai trò riêng của giáo dân trong sứ
mệnh Giáo Hội… Các ngài phải sẵn lòng lắng nghe giáo dân, cứu xét các
nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và
khả năng chuyên môn của họ trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động
nhân sinh, để cùng với họ có thể nhận biết những dấu chỉ của thời đại".[11]
Cha Sở Thánh đặc biệt đã dạy cho các giáo dân trong giáo xứ bằng chứng
tá của đời sống của mình. Theo mẫu gương của ngài, các giáo dân đã học
cầu nguyện, tự nguyện dừng lại trước nhà tạm để viếng Chúa Giêsu Thánh
Thể.[12] "Cha Sở đã giải thích cho họ: chúng ta không cần phải nói
nhiều để cầu nguyện tốt. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa nhân lành hiện
diện ở đó, trong Nhà Tạm thánh; chúng ta mở rộng tâm hồn cho Ngài; chúng
ta vui thích trước sự hiện diện của Ngài. Việc cầu nguyện đó là việc cầu
nguyện tốt nhất".[13] Và ngài đã khuyến khích họ: "Hãy đến rước
lễ, hãy đến với Chúa Giêsu, đến sống nhờ Ngài, để sống cho Ngài"
.[14] "Quả thật, anh chị em không xứng đáng với Ngài, nhưng anh chị
em cần đến Ngài !" .[15] Việc giáo dục các giáo dân trước sự hiện
diện Thánh Thể và rước lễ mặc lấy một hiệu quả hoàn toàn đặc biệt, khi
các giáo dân thấy ngài cử hành hy tế Thánh lễ. Những người tham dự đã
nói "rằng về điểm này không thể thấy một khuôn mặt mà diễn tả sự thờ
lạy… Ngài chiêm ngắm Mình Thánh với lòng yêu mến biết bao".[16] Ngài
nói: "Tất cả các công việc tốt lành hợp lại không tương đương được
với hy tế thánh lễ, bởi vì chúng là những công trình của con người, và
thánh lễ là công trình của Thiên Chúa".[17] Ngài xác tín rằng tất cả
sự nhiệt tâm của đời sống của một linh mục tùy thuộc vào Thánh lễ:
"Nguyên nhân sự buông thả nơi linh mục, đó là người ta không chú tâm đến
thánh lễ ! Than ôi ! Lạy Thiên Chúa của con ! Linh mục thật đáng thương
biết bao khi ngài thực thi điều đó như là một điều tầm thường !"
[18]. Và khi cử hành thánh lễ, ngài đã có thói quen luôn dâng hy tế của
cuộc sống của ngài: "Ô ! vào mọi buổi sáng, ước gì linh mục hiến dâng
mình cho Thiên Chúa như là hy lễ".[19]
Sự đồng nhất bản thân với hy tế Thập Giá này đã đưa ngài – bằng một
chuyển động nội tâm duy nhất – từ bàn thờ đến tòa giải tội. Các linh mục
không bao giờ được cam lòng nhìn thấy các tòa giải tội bi bỏ đi, cũng
không được bằng lòng nhìn thấy sự mất lòng tin yêu của các tín hữu đối
với bí tích này. Vào thời của Cha Sở Thánh, ở Pháp, việc xưng tội không
dễ dàng hơn cũng không thường xuyên hơn vào thời chúng ta, vì sự kiện
cơn bão táp Cách Mạng đã bóp nghẹt việc thực hành đạo trong thời gian
lâu dài. Nhưng bằng mọi cách ngài đã nỗ lực: bằng việc rao giảng, tìm
cách thuyết phuc bằng những lời khuyên, giúp các giáo dân tái khám phá ý
nghĩa và vẻ đẹp của Bí tích Sám hối, bằng cách cho thấy làm thế nào nó
là một đòi hỏi mật thiết của sự Hiện diện Thánh Thể. Như thế ngài đã
biết tạo nên một giới đạo hạnh (cercle vertueux). Qua việc ngài ở thường
xuyên lâu giờ tại nhà thờ, trước nhà tạm, ngài đã truyền cảm hứng cho
các tín hữu bắt chước ngài, bằng cách đến đó để viếng Chúa Giêsu, và
đồng thời họ chắc chắn tìm gặp cha sở của họ ở đó, sẵn sàng lắng nghe và
tha thứ. Về sau, đoàn các hối nhân gia tăng đến từ khắp nước Pháp, giữ
ngài ở tòa giải tội cho đến 16 giờ mỗi ngài. Lúc đó người ta nói rằng họ
đạo Ars đã trở thành "đại bệnh viện của các tâm hồn".[20] Người
viết tiểu sử đầu tiên đã nói: "Ân sủng mà ngài đã đạt được [cho sự
hoán cải của các tội nhân] mạnh mẽ đến nỗi nó đã đi tìm kiếm họ mà không
để cho họ một lát nghỉ ngơi" [21]. Đó chính là những gì Cha Sở Thánh
đã suy nghĩ khi ngài nói: "Không phải tội nhân trở về với Thiên Chúa
để xin ngài tha thứ, nhưng chính Thiên Chúa chạy theo tội nhân và làm
cho họ quay về với Ngài".[22] "Đấng cứu độ nhân lành này ngập
tràn tình yêu đối với chúng ta đến nỗi Ngài tìm kiếm chúng ta khắp nơi
!". [23]
Chúng ta hết thảy, là những linh mục, chúng ta cần nhận thấy rằng những
lời mà ngài đặt trên môi miệng của Chúa Kitô đều liên quan đến chúng ta
cách cá nhân: "Ta sẽ ủy thác cho các thừa tác viên của Ta loan báo
cho họ rằng Ta luôn sẵn sàng đón nhận họ, rằng lòng thương xót của Ta là
vô tận".[24] Là những linh mục, chúng ta có thể học hỏi từ Cha Sở
Thánh họ đạo Ars không chỉ sự tin tưởng vô tận vào bí tích Sám Hối đến
độ thúc giục chúng ta đặt lại nó ở trung tâm của những bận tâm mục vụ
của chúng ta, nhưng còn một phương pháp cho "sự đối thoại cứu độ"
mà nó đòi hỏi. Cha Sở họ đạo Ars cư xử với các hối nhân khác nhau theo
cách khác nhau. Người nào đến với tòa giải tội bởi mong mỏi sâu xa và
khiêm tốn ơn tha thứ của Thiên Chúa sẽ tìm thấy nơi ngài sự khích lệ đắm
mình vào "dòng thác của lòng thương xót của Thiên Chúa" mà cuốn
đi mọi sự trong đà mãnh liệt của nó. Và nếu có ai sầu khổ về sự yếu đuối
và tính hay thay đổi của mình, sợ có những sự tái sa ngã sắp đến, thì
Cha Sở cho người ấy thấy bí mật của Thiên Chúa bằng một lối diễn tả về
một vẻ đẹp làm cảm động: "Thiên Chúa nhân lành biết mọi sự. Ngài biết
trước rằng sau khi anh chị em đã xưng tội, anh chị em sẽ phạm tội lần
nữa, thế nhưng ngài tha thứ cho anh chị em. Thật lớn lao tình yêu của
Thiên Chúa của chúng ta, Ngài đi đến chỗ muốn quên đi tương lai để tha
thứ cho chúng ta !" [25]. Ngược lại, đối với người thú tội cách lạnh
nhạt và hầu như dửng dưng, bằng nước mắt, ngài chứng minh sự đau khổ và
tính nghiêm trọng mà một thái độ "tồi tệ" này đã gây ra, ngài nói:
"Tôi khóc cho những gì mà anh không khóc".[26] "Còn nữa, giá mà
Thiên Chúa nhân từ đã không nhân từ như thế, nhưng mà Ngài là nhân từ
như thế. Con người cần phải thô lỗ đối với một Thiên Chúa nhân từ
như thế sao".[27] Ngài đánh thức sự hối cải nơi tâm hồn của những người
hờ hững, bằng cách giúp cho họ thấy, từ chính mắt của họ và hầu như «
được nhập thể » trên khuôn mặt của linh mục đang giải tội cho ho, nỗi
đau khổ của Thiên Chúa trước các tội lỗi. Trái lại, nếu có người đến với
ao ước về một đời sống thiêng liêng sâu xa hơn và người ấy có khả năng
về điều đó, thì ngài dẫn họ vào trong chiều sâu của tình yêu, cho thấy
vẻ đẹp khó tả của việc có thể sống kết hiệp với Thiên Chúa và trước nhan
Ngài: "Tất cả dưới ánh mắt của Thiên Chúa, tất cả với Thiên Chúa, tất
cả để làm đẹp lòng Thiên Chúa… Ô ! thật đẹp làm sao !". [28] Với
những người đó, ngài dạy cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa của con, xin ban
cho con ân sủng yêu mến Chúa chứng nào con còn có thể yêu mến Chúa"
[29].
Vào thời ngài, Cha Sở họ đạo Ars đã biết biến đổi tâm hồn và đời sống
của biết bao người, bởi vì ngài đã có thể làm cho họ nhận thấy lòng
thương xót yêu thương của Chúa. Thời đại của chúng ta cũng có một nhu
cầu cấp bách về một sự loan báo và làm chứng như thế về chân lý của Tình
Yêu: Thiên Chúa là Tình yêu (Deus caritas est (1Ga 4,8)). Nhờ Lời
và các Bí tích của Chúa Giêsu, cha Gioan-Maria Vianê đã biết xây dựng
đoàn chiên của mình, cho dầu, ngài thường run sợ trước sự bất tài của
bản thân, đến độ hơn một lần đã muốn thoát khỏi những trách nhiệm của
thừa tác vụ giáo xứ mà ngài cảm thấy bất xứng. Tuy nhiên, bằng gương
vâng phục, ngài đã luôn ở lại nhiệm sở của mình, bởi vì ngài được thiêu
đốt bởi đam mê tông đồ vì ơn cứu rỗi của các linh hồn. Ngài đã nỗ lực
gắn bó hoàn toàn với ơn gọi và sứ mạng của mình bằng cách thực hành một
sự khổ chế nghiêm nhặt: "Nỗi bất hạnh lớn, đối với chúng ta những cha
sở khác – cha thánh lấy làm tiếc –, đó là linh hồn trở nên uể
oải" [30]; và vì thế ngài ám chỉ đến mối nguy hiểm đe dọa người mục
tử là quen với tình trạng tội lỗi hay dửng dưng trong đó biết bao con
chiên của ngài rơi vào. Ngài đã làm chủ thân xác của mình bằng những
canh thức và ăn chay, để tránh việc nó nổi loạn chống lại tâm hồn linh
mục của ngài. Và ngài đã không do dự buộc mình khổ chế vì lợi ích của
các linh hồn được giao phó cho ngài và để đóng góp vào việc đền thay cho
biết bao tội lỗi mà ngài đã nghe lúc giải tội. Ngài đã giải thích cho
một người anh em linh mục: "Tôi xin nói với cha phương pháp của tôi.
Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ và tôi đền tội thay cho họ phần còn lại"
[31]. Bên kia những việc đền tội cụ thể mà Cha Sở họ đạo Ars tiến
hành, thì cốt lõi trọng tâm của giáo huấn của ngài vẫn luôn có giá trị
cho mọi người: Chúa Giêsu đổ máu mình cho các linh hồn và linh mục không
thể hiến dâng cho ơn cứu độ của họ nếu ngài từ chối tham dự cách cá nhân
vào cái "giá cao" của ơn cứu độ.
Trong thế giới hôm nay, cũng như vào thời của Cha Sở họ đạo Ars, trong
cuộc sống và trong hành động của mình, các linh mục cần phải nổi bật bởi
sức mạnh chứng tá tông đồ của mình. Đức Phaolô VI đã nhận xét
cách thích đáng: "Con người hiện đại muốn nghe những chứng nhân hơn
là những thầy dạy, hay nếu họ nghe các thầy dạy, đó là vì các thầy dạy
đã là những chứng nhân" [32]. Để tránh cho một sự trống rỗng hiện
sinh nổi lên trong chúng ta và tính hiệu năng của thừa tác vụ của chúng
ta không bị tổn hại, một lần nữa chúng ta cần phải tự vấn luôn:
"Chúng ta có thật sự được thấm nhuần bởi lời Chúa chưa ? Lời Chúa có
thực sự là lương thực làm cho chúng ta sống, còn hơn cả bánh và những
thứ của trần gian này ? Chúng ta có thực sự biết Lời Chúa không ? Chúng
ta yêu mến Lời Chúa không ? Tự nội tâm, chúng ta có bận tâm về Lời này
đến độ nó tạc nên cuộc sống của chúng ta và hình thành tư tưởng của
chúng ta ?" [33]. Như Chúa Giêsu đã kêu gọi nhóm Mười Hai để họ ở
với Ngài (x. Mc 3,14) và chỉ sau đó, ngài mới sai họ đi rao giảng, thì
cũng thế, vào thời chúng ta, các linh mục được kêu gọi đồng hóa với
"phong cách sống mới" này mà đã được Chúa Giêsu khơi mào và đã trở
nên chính nếp sống của các Tông Đồ.[34]
Chính cùng sự gắn bó hoàn toàn với "phong cách sống mới" này mà đã là
dấu ấn của sự dấn thân của Cha Sở họ đạo Ars trong toàn bộ thừa tác vụ
của ngài. Đức Gioan XXIII, trong thông điệp Sacerdotii nostri primordia,
được công bố vào năm 1959 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của thánh
Gioan-Maria Vianê, đã giới thiệu khuôn mặt khổ hạnh dưới dấu chỉ của "ba
lời khuyên Phúc âm", mà ngài xem cũng là cần thiết cho các linh mục:
"Nếu để đạt đến sư thánh thiện này của cuộc sống, việc thực hành các lời
khuyên Phúc âm không bị áp đặt cho linh mục bằng vào bậc sống giáo sĩ
của họ, thì thế nhưng nó được đề nghị cho linh mục, cũng như cho tất cả
các môn đệ của Chúa, như là con đường triệt để của sự nên thánh kitô
giáo".[35] Cha Sở họ đạo Ars đã biết sống "các lời khuyên Phúc âm
theo những hình thái thích ứng với hoàn cảnh linh mục của ngài. Quả thế,
đức nghèo khó nơi ngài không phải là đức nghèo khó của một tu sĩ
hay của một đan sĩ, nhưng là đức nghèo khó được đòi hỏi nơi một linh
mục: dù hoàn toàn quản lý những số tiền lớn (vì các khách hành hương
giàu nhất không quên quan tâm đến các công việc từ thiện của ngài),
nhưng ngài biết rằng tất cả được cho là vì nhà thờ của ngài, vì những
người nghèo, vì những trẻ mồ côi và vì những đứa trẻ của nhà "Chúa Quan
Phòng" của ngài,[36] và vì các gia đình túng thiếu nhất. Bởi thế, ngài
"là người giàu có để trao ban cho người khác, và rất nghèo cho chính
ngài".[37] Ngài giải thích: "Bí quyết của tôi là rất đơn giản, đó là
cho đi tất cả và không giữ lại gì".[38] Xảy ra là khi ngài không có
gì, thì ngài nói với những người nghèo gõ cửa nhà ngài: "Tôi cũng
nghèo như ông/bà vậy; hôm nay tôi là một người trong số ông bà".[39]
Bởi thế, vào cuối đời, ngài đã có thể khẳng định bằng một sự thanh thản
hoàn toàn: "Tôi không có gì nữa, Thiên Chúa nhân từ có thể kêu gọi
tôi khi Ngài muốn".[40] Đức khiết tịnh của ngài cũng là đức
khiết tịnh được đòi hỏi đối với một linh mục vì thừa tác vụ của họ.
Người ta có thể nói rằng nó hệ tại đức khiết tịnh cần thiết cho người mà
phải thường ngày chạm đến Thánh Thể và chiêm ngắm Thánh Thể với tất cả
sự sốt mến của tâm hồn và, bằng cũng chính lòng sốt sắng, trao ban nó
cho các tín hữu. Người ta đã nói về ngài rằng "đức khiết tinh chiếu
sáng nơi cái nhìn của ngài", và các tín hữu nhận thấy điều đó khi
ngài hướng về nhà tạm với cái nhìn của một người đang yêu.[41] Cũng thế,
đức vâng lời của thánh Gioan-Maria Vianê hoàn toàn nhập thể trong sự gắn
bó của ngài với mọi đau khổ gắn liền với những đòi hỏi thường ngày của
thừa tác vụ. Người ta biết là ngài đã đau khổ như thế nào vì sự bất tài
của ngài đối với thừa tác vụ giáo xứ và bởi ước muốn chạy trốn của ngài
"để khóc trong sự cô đơn về đời sống nghèo nàn của ngài".[42] Chỉ
đức vâng lời, và lòng say mê các linh hồn của ngài, mới có thể chính
phục ngài ở lại nhiệm sở. Ngài đã cho các giáo dân của ngài, cũng như
cho chính ngài thấy rằng không "có hai cách thức tốt phụng sự Chúa
chúng ta, chỉ có một mà thôi, đó là phụng sự Ngài như Ngài muốn được
phụng sự".[43] Đối với ngài, dường như quy luật vàng cho một cuộc
sống vâng phục là quy luật này: "Chỉ làm những gì mà người ta có thể
dâng cho Thiên Chúa nhân từ".[44]
Trong bối cảnh của một linh đạo được nuôi dưỡng bởi việc thực hành các
lời khuyên Phúc âm này, tôi xin gởi đến các linh mục, vào Năm được dành
riêng cho họ này, một lời mời gọi thân ái, lời mời gọi biết đón nhận mùa
xuân mới mà Thánh Thần đang khơi lên trong Giáo Hội vào thời chúng ta,
đặc biệt nhờ những Phong trào của Giáo Hội và những Cộng đoàn mới.
"Thánh Thần trong những ân huệ của Ngài mang nhiều hình dạng khác nhau…
Ngài thổi đâu Ngài muốn. Ngài thực hiện cách bất ngờ, ở những nơi bất
ngờ và dưới những hình thức mà không thể hình dung trước… Ngài cũng
chứng mình cho chúng ta rằng Ngài đang hoạt động vì nhiệm thể duy nhất
và trong sự hiệp nhất với nhiệm thể duy nhất".[45] Về phương diện
này, những gì mà Sắc lệnh Presbyterorum ordinis nói là có tính thời sự:
"Nghiệm xem các tinh thần có phải từ Thiên Chúa đến hay không, các
ngài [các linh mục] phải lấy tinh thần đức tin mà khám phá, vui mừng mà
nhận biết, và chuyên cần phát triển những đặc sủng muôn hình của giáo
dân".[46] Chính những ân huệ này, mà thúc đẩy biết bao nguời đến một
đời sống thiêng liêng cao hơn, là có ích lợi không chỉ cho các giáo dân
nhưng còn cho chính các thừa tác viên. Chính từ sự hiệp thông giữa các
thừa tác viên chức thánh và các đặc sủng mà có thể nảy sinh "một đà
sống quý giá đối với sự dấn thân mới mẻ của Giáo Hội nhằm phục vụ cho
việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng về đức cậy và đức mến khắp nơi
trên thế giới".[47] Trong đường hướng của Tông huấn Pastores dabo
vobis của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, tôi xin nói thêm rằng thừa tác
vụ chức thánh có một "hình thức cộng đoàn" triệt để và nó chỉ có
thể được thực hiện trong sự hiệp thông với các Giám mục của mình.[48] Sự
hiệp thông của các linh mục giữa họ và với Giám mục của họ này, được cắm
rễ sâu trong bí tích Truyền Chức Thánh và được biểu lộ qua việc cử hành
thánh lễ, cần được thể hiện trong những hình thức cụ thể khác nhau của
một tình huynh đệ hữu hiệu và trìu mến.[49] Chỉ như thế, các linh mục sẽ
có thể sống viên mãn ân huệ đời sống độc thân và sẽ có khả năng làm cho
các cộng đoàn kitô hữu triển nở, ở đó các kỳ công của việc loan báo Tin
Mừng đầu tiên được tái diễn.
Năm Phaolô sắp kết thúc mời gọi chúng ta nhìn xem lần nữa hình ảnh của
vị Tông đồ dân ngoại trong đó chiếu sáng trước mắt chúng ta một khuôn
mẫu linh mục sáng ngời hoàn toàn "được hiến trao" cho thừa tác vụ của
mình. Ngài viết: "Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng
tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người
đều chết" (2Cr 5,14) và ngài nói thêm: "Ngài đã chết thay cho mọi
người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống
cho Đấng đã chết và sống lại vì mình" (2Cr 5,15). Có thể có chương
trình tuyệt vời nào hơn được đề nghị cho một linh mục đang nỗ lực tiến
triển trên con đường hoàn thiện kitô giáo như thế không ?
Các linh mục quý mến, việc cử hành 150 năm ngày mất của thánh
Gioan-Maria Vianê (1859) đến ngay sau những cử hành được hoàn tất cách
đây không lâu về kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức (1858). Vào
năm 1959, chân phước Gioan XXIII đã nhận xét: "Chỉ trước khi Cha Sở
họ đạo Ars hoàn tất sự nghiệp lâu dài đầy công trạng một chút, [Đức
Trinh Nữ Vô Nhiễm] đã hiện ra ở một vùng khác của Pháp cho một em bé
khiêm tốn và trong sáng để truyền đạt cho em một sứ điệp cầu nguyện và
đền tội, mà người ta đã biết tiếng vang vọng thiêng liêng bao la từ một
thế kỷ nay. Quả thật, cuộc sống của vị linh mục thánh thiện là chúng ta
kính nhớ, là một minh họa trước những chân lý siêu nhiên lớn lao đã được
dạy cho cô bé thị kiến ở Massabielle ! Chính ngài cũng dành cho Đức
Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội một sự sùng kính rất mãnh liệt, chính
ngài, vào năm 1836, đã hiến dâng giáo xứ của ngài cho Đức Marie Vô Nhiễm
Nguyên Tội và đã vô cùng vui mừng đón nhận trong đức tin định tín của
năm 1854".[50] Cha Sở Thánh luôn nhắc cho các tín hữu của ngài rằng
"Chúa Giêsu-Kitô, sau khi đã trao ban tất cả những gì ngài có thể
trao ban cho chung ta, vẫn còn muốn làm cho chúng ta thành những người
thừa kế những gì còn quý báu hơn, đó là Thánh Mẫu của Ngài".[51]
Tôi phó thác Năm linh mục này cho Đức Thánh Trinh Nữ, cầu xin Mẹ khơi
lên trong tâm hồn của mỗi linh mục một sự canh tân quảng đại những lý
tửong hiến thân hoàn toàn cho Chúa Kitô và cho Giáo Hội này, mà đã từng
gợi hứng cho tư tưởng và hành động của Cha Sở Thánh họ đạo Ars. Đời sống
cầu nguyện sốt sắng và tình yêu say mê Chúa Giêsu chịu đóng đinh đã nuôi
dưỡng sự trao hiến hằng ngày và hoàn toàn của cha Gioan-Maria Vianê cho
Thiên Chúa và cho Giáo Hội. Ước gì mẫu gương của ngài khơi lên, nơi các
linh mục, chứng tá hiệp nhất với Giám mục, giữa họ và với giáo dân, mà
rất cần thiết hôm nay, cũng như mọi thời. Bất chấp sự dữ đang hiện diện
trong thế giới, lời của Chúa Kitô nói với các Tông đồ ở nhà Tiệc Ly vẫn
luôn vang vọng hiện thực: "Trong thế gian, các con sẽ chịu đau khổ,
nhưng hãy can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Niềm tin vào
Thầy ban cho chúng ta sức mạnh nhìn tương lai cách tin tưởng. Các linh
mục quý mến, Chúa Kitô trông cậy vào anh em. Theo mẫu gương của Cha Sở
Thánh họ đạo Ars, anh em hãy dể cho Ngài chinh phục và anh em cũng thế,
trong thế giới hôm nay, anh em sẽ là những sứ giả hy vọng, hòa giải và
hòa bình !
Cùng với phép lành của tôi.
Từ Vatican, ngày 16 tháng Sáu năm 2009
+ Benedictô XVI, Mục tử của các mục tử.
Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ. Nguồn XBVN 20/6/09
Chú thích:
[1] Chính như thế mà Đức Giáo hoàng Piô XI đã công bố vào năm 1929.
[2] "Le Sacerdoce, c’est l’amour du cœur de Jésus" (in Le Curé d’Ars, Sa
pensée, Son cœur. Présentés par l’Abbé Bernard Nodet, éd. Xavier Mappus,
Foi Vivante, 1966, p. 98). Về sau: Nodet. Kiểu nói cũng được trích dẫn
trong sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 1589.
[3] Nodet, tr. 101.
[4] Ibid., tr. 97.
[5] Ibid., các trang. 98-99.
[6] Ibid., các trang. 98-100.
[7] Ibid., tr. 183.
[8] Alfred Monnin, Le Curé d’Ars. Vie de M. Jean-Baptiste Marie Vianney,
I, Charles Douniol, 1868.
[9] x. Lumen gentium, n. 10.
[10] Presbyterorum ordinis, n. 9.
[11] Ibid.
[12] Người nông dân họ đạo Ars, đang cầu nguyện trước Nhà tạm, đã nói
vào thời của Cha Sở Thánh: "Việc chiêm ngắm là cái nhìn đức tin, được
chắm chú vào Chúa Giêsu. Tôi nhìn thấy Ngài và Ngài nhìn thấy tôi"
(GLGHCG, số 2715).
[13] Nodet, tr. 85.
[14]Ibid., tr. 114.
[15]Ibid., tr. 119.
[16]Alfred Monnin, o.c.. II.
[17]Nodet, tr. 105.
[18]Ibid., tr. 105.
[19]Ibid., tr. 104.
[20] Alfred Monnin, o.c., II.
[21] Ibid.
[22] Nodet, tr. 128.
[23] Ibid., tr. 50.
[24] Ibid., tr. 131.
[25] Ibid., tr. 130.
[26] Ibid., tr. 27.
[27] Ibid., tr. 139.
[28] Ibid., tr. 28.
[29] Ibid., tr. 77.
[30] Ibid., tr. 102.
[31] Ibid., tr. 189.
[32] Evangelii nuntiandi, n. 41.
[33] BenoîtXVI, Bài giảng lễ Dầu, ngày 9 tháng Tư năm 2009.
[34] x. Benoît XVI, Diễn từ cho Hội nghị khoáng đại của Bộ giáo sĩ, ngày
16 tháng Ba năm 2009.
[35] Phần I.
[36] Đó chính là danh xưng mà nài đặt cho ngôi nhà mà ngài đã cho đón
tiếp và giáo dục hơn 60 em gái bị bỏ rơi. Ngài sẵn sàng tất cả để bảo
trì nó: Ngài mỉm cười nói: "Tôi đã thực hiện mọi sự buôn bán có thể
tưởng tưởng được" (Nodet, tr. 214).
[37] Nodet, tr. 216.
[38] Ibid., tr. 215.
[39] Ibid., tr. 216.
[40] Ibid., tr. 214.
[41] x. Ibid., tr. 112.
[42] Cf. Ibid., các trang. 82-84; 102-103.
[43] Ibid., tr. 75.
[44] Ibid., tr. 76.
[45] Benoît XVI, Bài giảng lễ Vọng Hiện Xuống, ngày 3 tháng Sáu năm
2006.
[46] N. 9.
[47] Benoît XVI, Diễn từ cho các Giám mục bạn của Phong trào Focolari và
Cộng đồng Sant’Egidio, ngày 8 tháng Hai năm 2007.
[48] x. số. 17.
[49] x. Gioan-Phaolô II, Tông Huấn Pastores dabo vobis, số. 74.
[50] Thông điệp. Sacerdotii nostri primordia, P III.
[51] Nodet, p. 244. |