Merton để lại ít nhất cũng hơn 70 tác phẩm, chưa kể rất nhiều thư từ
liên lạc. Cho đến nay các sách và bài vở viết về ông có đến hàng trăm,
đủ cho thấy ảnh hưởng của ông sâu rộng ra sao. Từ ngày ông qua đời, ảnh
hưởng ấy càng lớn mạnh hơn và ông được mọi người nhìn nhận là một nhà
huyền nhiệm và tư tưởng Công Giáo quan trọng của thế kỷ 20. Việc lưu ý
tới các công trình của ông đã góp phần vào việc gia tăng sự tìm kiếm tâm
linh bắt đầu từ hai thập niên 1960 và 1970 tại Hoa Kỳ. Các thư từ và
nhật ký của ông cho thấy lòng say mê cao độ của ông đối với các vấn đề
công bằng xã hội, gồm cả các phong trào dân quyền và việc phổ biến vũ
khí nguyên tử. Thêm vào đó, các trước tác của ông cũng gây nên phong
trào học hỏi tư tưởng, thực hành Công Giáo và ơn gọi vào Dòng Xi Tô.
Để ghi nhận sự gần gũi giữa Merton và Đại Học Bellarmine ở Louisville,
Kentucky, trường này đã cho thiết lập một địa điểm lưu giữ chính thức
các văn khố về Merton tại Trung Tâm Thomas Merton. Paul Pearson, giám
đốc trung tâm này, cho hay: yếu tính nền linh đạo của Merton là tính
người của nó. Ông thực sự có khả năng nói với người thông thường. Không
có gì mới lạ trong đó cả. Ông chỉ diễn tả các nhà cổ điển vĩ đại của nền
linh đạo Kitô Giáo bằng một ngôn ngữ mà người bình dân có thể hiểu được
và sống được. Pearson cho đó là một đóng góp lớn vì vào hai thập niên
1940 và 1950, nền linh đạo ấy chưa được một người bình dân nào nghe nói
tới cả. Nó chỉ thuộc phạm vi của các tu sĩ, linh mục và giám mục. Người
giáo dân thường thì lần chuỗi môi khôi ngay trong thánh lễ
Cũng theo Pearson, thoạt đầu xem ra Merton muốn quay lưng với thế giới
tội lỗi ở bên ngoài đan viện. Nhưng càng sống kinh nghiệm đan viện, và
sau sự thành công của cuốn tự truyện Núi Bẩy Tầng và rất nhiều thư từ
nhận được sau đó cũng như việc giao tiếp với giới trẻ mà ông giảng dạy
ngay bên trong đan viện khiến ông nghĩ rằng ông không thể để thế giới
lại phía sau cổng đan viện, mà thực sự ông vào đan viện là vì chính cái
thế giới ấy. Thế là nền linh đạo của ông thay đổi để bao hàm cả việc
phải đối đầu với các vấn đề đang được mọi người trong thế giới quan tâm.
Pearson gọi đó là nền linh đạo biết phối hợp cả chiêm niệm lẫn hành
động. Các vấn đề ấy gồm: chiến tranh lạnh, thi đua vũ khí hạch nhân,
chiến tranh và hòa bình, bất bạo động, rồi chiến tranh Việt Nam, dân
quyền, nữ quyền, lạm dụng kỹ thuật, hiệu quả của truyền thông, sinh
thái. Ông là người đầu tiên cho duyệt lại cuốn Silent Spring của Rachel
Carson (20) và còn cho đọc nó tại phòng cơm đan viện, cũng như khuyên
các đan sĩ phải lưu tâm đến vấn đề tái sinh rừng ngay trong đan viện.
Nhưng theo Pearson, khi quyết định không đơn thuần chỉ viết về linh đạo,
Merton đã gây ra nhiều tranh cãi. Người ta vẫn chỉ muốn ông viết về linh
đạo. Vì một đan sĩ, sống sau bốn bức tường đan viện, phỏng biết được bao
nhiều về những chuyện ở đời, nhất là “đời” lúc ấy lại đang do một tổng
thống Công Giáo đầu tiên cai trị. Chỉ trích chính phủ và Giáo Hội lúc ấy
xem ra không hợp thời.
Nhận định về các tìm tòi đối với nền đan viện Đông Phương của Merton,
Pearson cho rằng đó cũng là một đóng góp lớn, vào một thời điểm (thập
niên 1960), ít người làm thế. Trước đó, trong thập niên 1950, Merton
từng đã bắt đầu làm việc với các sinh viên thuộc các giáo phái khác như
các chủng sinh của giáo phái Luthêrô tại Louisville hay các chủng sinh
Baptist. Họ tới gặp để đối thoại với Merton và các đan sĩ khác của đan
viện Gethsemani. Điều ấy không xẩy ra nhiều trước Vatican II. Sau đó,
ông mở rộng, trước bằng thư từ, sau bằng tiếp xúc trực tiếp với người
thuộc các tôn giáo khác, còn mời họ nói truyện với các tập sinh của đan
viện và cả đan viện nữa.
Một số người, trong đó, có nhiều vị giáo phẩm, coi Merton như một thứ
Tân Đại (New Age) nhợt nhạt. Tuy nhiên, theo Pearson, Merton quả đi
trước cả thời gian, nhưng lại luôn bám trụ vào thánh truyền, nhất là các
giáo phụ sa mạc, những người tuy ‘xa lánh’ thế gian, nhưng vua chúa thế
gian vẫn lui tới vấn kiến.
Thầy Paul Quenon của Đan Viện Gethsemai, từng được “Cha Louis”, tên quen
thuộc của Merton trong đan viện, linh hướng, cho hay: đối với Merton cầu
nguyện cũng giống như cuộc vật lộn của Giacóp với Thiên Chúa. Khi ta gặp
gỡ Thiên Chúa, Người không phải là một sự vật. Như thế có thể nói Thiên
Chúa giống như không là gì cả. Và do đó, khi bạn buớc vào cầu nguyện sâu
sắc, là bạn bước vào cõi không (nothingness). Theo thầy, điều ấy là chủ
yếu trong nền linh đạo của Merton. Nghe như có cung giọng Thiền rõ rệt.
Tuy nhiên sau đó, thầy Quenon nhấn mạnh rằng tìm kiếm Thiên Chúa trong
cô tịch chính là cốt lõi nền linh đạo của Merton và cũng là cốt lõi thẳm
sâu của bản ngã ta. Merton cho hay chiêm niệm là trả lời một mời gọi,
một mời gọi của Đấng không có tiếng nói nhưng lại nói trong mọi sự, nhất
là trong thẳm sâu hữu thể ta. Do đó, theo Merton, có một mầu nhiệm về
bản ngã, một mầu nhiệm giống như mầu nhiệm về Thiên Chúa. Cả hai đều là
một mầu nhiệm duy nhất đối với ta. Chính trong diễn trình biết mình, ta
biết được Thiên Chúa, hay đúng hơn, đạt được sự hiểu biết Thiên Chúa một
cách trực tiếp là cách duy nhất ta biết được chính mình.
Không đề cập nhiều tới các trước tác không phải là linh đạo, thầy Quenon
cho rằng Merton đã gây tác động tích cực lên lối sống đan viện. “Chúng
tôi đã có được một tầm nhìn rộng lớn hơn về cuộc đời […]. Chúng tôi biết
đánh giá tốt hơn nhiều ơn gọi khác nhau của cuộc sống đan viện. Chúng
tôi đã khai triển được việc biết đánh giá cuộc sống đơn tu của nhà ẩn tu
cũng như biết đánh giá các thách đố trí thức gặp thấy trong cuộc sống
đơn tu, những thách đố mà trước đây các đan sĩ vốn bị coi là không nên
ước ao. Nhưng rõ ràng Merton là một điển hình cho thấy điều người ta có
thể làm trong bối cảnh đời sống đơn tu”.
Thầy cũng cho rằng cả các cố gắng trong việc bắt tay với các tôn giáo
Đông Phương của Merton cũng là một điển hình cho cuộc sống đơn tu. Các
đan sĩ tại Gethsemai đã tìm thấy một thứ tình họ hàng với các tu sĩ Phật
Giáo. Họ tới đây từng nhóm nhỏ trong nhiều dịp khác nhau, cả Matthieu
Ricard cũng tới đây, ông ta vốn làm việc với Đức Dalai Lama trong 17 năm
nay. Theo thầy, các đan sĩ biết đánh giá phổ quát tính tốt hơn trước rất
nhiều.
Viết về chức linh mục
Xem như thế, cuộc hiện sinh của một linh mục thời hiện đại đa dạng và
nhiều khía cạnh phức tạp hơn trước nhiều lắm. Nhu cầu mục vụ càng ngày
càng mang tới nhiều mẫu sống linh mục hết sức độc đáo và nhiều rủi ro.
Điều ấy càng khiến Giáo Hội quan tâm nhiều hơn tới hàng ngũ linh mục,
những người luôn ở hàng tiền đạo của mình. Sứ mệnh của Giáo Hội tùy
thuộc phần lớn vào hàng ngũ này. Cầu nguyện cho hàng linh mục vì thế
phải là hình thức hỗ trợ cần thiết nhất và cũng hữu hiệu nhất trong thời
đại này.
Thomas Merton không phải chỉ chứng tỏ tính phức tạp và đầy thách đố của
cuộc sống linh mục bằng chính cuộc sống mình, mà ông còn dùng ngòi bút
trực tiếp nói lên các khía cạnh đó. Chúng tôi tạm trích 4 đoạn nhật ký
của ông (21) viết vào bốn thời điểm khác nhau về chủ đề vừa nói:
1. Thứ ba tuần thánh, 17 tháng Hai năm 1953:
“Nhìn lên tượng chịu nạn treo trên bức tường trắng tại Nhà Thờ Thánh
Anna, bỗng nhiên tràn ngập cả cõi lòng khi nhận ra mình là một linh mục,
ơn này được ban cho mình để mình biết Thánh Giá có nghĩa gì, và nhà thờ
Thánh Anna là một phần hết sức đặc biệt đối với ơn gọi linh mục của
mình: sự im lặng của nó, các bụi cây, ánh sáng mặt trời, bóng tối, hình
Chúa Giêsu, hình Đức Bà Cobre và thiên thần bé nhỏ trong tranh thiên
đàng của Fra Angelico. Thế là mình đang là một linh mục với thế giới làm
giáo xứ. Hay đó là một cơn cám dỗ, khi chỉ cần nghĩ như thế? Có lẽ mình
không cần nhớ tới tính hoa trái tông đồ của sự im lặng này. Mình chỉ cần
không là gì cả và sẵn sàng chờ đợi sự mạc khải của Chúa Kitô: bình an,
khó nghèo và im lặng nơi một thế giới, trong đó mầu nhiệm sự ác cũng
đang hành động và là nơi không còn sự mạc khải nào khác. Không, tại nhà
thờ Thánh Anna, có sự bình an đến độ chắc chắn nó trở thành trung tâm
của một trận chiến thiêng liêng đang được chiến đấu trong im lặng. Tôi,
kẻ đang ngồi đây, đang cầu nguyện, đang suy tư và đang sống, tôi quả
không là gì cả, và cũng không cần phải biết điều gì đang xẩy ra. Tôi chỉ
cần hy vọng vào Chúa Kitô để nghe được tiếng chuông vọng sâu thật lớn
đang bắt đầu rung lên và gửi âm vang thánh của nó tới tôi qua hàng bách
tùng bé nhỏ”.
2. Ngày 19 tháng Giêng năm 1961:
“Cần phải thoát khỏi mọi can dự - đối với mọi phía. Cần cố gắng giữ
thanh tĩnh mà mình vốn có nhiệm vụ rao giảng: không phải như một thứ xa
xỉ mà như một điều cần thiết. Trong mấy năm qua, mình đã thay đổi không
biết bao nhiêu ý niệm về vấn đề này. Không còn phải là vấn đề ‘thánh
hóa’ nữa nhưng chỉ là chuyện sống còn, sống còn trong toàn vẹn tính mà
Thiên Chúa đã ban cho mình.
Cần biết lúc nào, cách nào và với ai để nói chữ ‘không’. Nhiều rắc rối
và khó khăn lắm ạ. Đừng có muốn làm ai thương tổn, chắc hẳn rồi, nhưng
cũng đừng quá lo lắng làm vui lòng họ.
Người ta không ngừng tìm cách lợi dụng bạn trong việc giúp họ tạo ra một
ảo tưởng để họ sống. Nhất là các ảo tưởng tập thể hết sức đa dạng. Vì
lầm lỗi của chính tôi, tôi đã trở nên thành phần của quá nhiều ảo tưởng
tập thể, tôi đã muốn trở nên như thế.
Trong lãnh vực yêu thương, cần có sự phân biệt. Tôi từng thoả mãn khi
được nhiều người ‘nghĩ tốt’ về mình và mình nghĩ tốt về họ. Một thứ lòng
tốt đầy ảo tưởng vốn giúp hết thẩy chúng ta cảm thấy an ổn.
Tôi phải hy sinh cái hào quang ảo tưởng của lòng tốt ấy và chỉ nên chú ý
tới việc quan tâm chân chính đối với các cá nhân được Thiên Chúa dẫn tới
với tôi mà thôi. Việc chăm sóc này là một can dự và là một can dự có
tính sinh tử. Nhưng can dự ấy tốt và đúng, vì nó đặc thù, có tính bản
thân. Nó không phải là một ‘phong trào’. Nó không tản mạn, mù xương, hao
tốn, phi lý.
Vấn đề viết lách: nhất định là phải cắt giảm hoặc thay đổi.
Có người tố cáo tôi muốn làm ‘linh mục thượng phẩm’ của óc sáng tạo.
Hoặc ít ra cũng để cho người ta coi tôi như vậy. Việc ấy có lẽ đúng.
Tội là muốn làm linh mục thượng phẩm (pontiff), muốn được người ta nghe,
muốn có người cải đạo, muốn có đồ đệ. Vì ở trong tu viện kín, tôi nghĩ
tôi không muốn điều ấy. Nhưng dĩ nhiên, tôi muốn thế, và ai cũng biết
vậy.
Sách Nguyện tối nay nói rằng Thánh William, lúc gần chết, đã gỡ bỏ hết
phẩm phục giám mục (không thể tưởng tượng được việc tại sao ngài lại
phải mặc thứ phẩm phục đó ở trên giường bệnh!) và đã ráng hết sức bước
xuống sàn nhà để qua đời ở đấy.
Tôi cũng như ngài, đang đội mũ tế (mitre) trên giường. Tôi sẽ phải làm
gì với nó đây?
Một điều tôi phải thoát khỏi là hình ảnh về người Công Giáo nổi tiếng ở
nước này. Tôi không hề là thứ người Công Giáo ấy, và tại sao tôi lại nên
đem lại cho những người ấy cái ý niệm tôi là người gợi hứng đối với họ?
Tôi không gợi hứng cho ai hết. Các giáo sĩ từng chống đối tôi sẽ hiểu ra
điều ấy. Giữa họ và tôi có cả một hố thẳm.
Đồng thời lại có thứ cám dỗ tinh tế hơn, cơn cám dỗ làm người Công Giáo
tiên phong kiểu Pháp, muốn có liên hệ tốt đẹp với giai cấp vô sản cánh
tả. Muốn trở nên một ‘thành phần của tương lai’. Nhưng đó chỉ là một thứ
huyền thoại khác. Và ở nhiều phương diện, còn là một thứ huyền thoại tệ
hơn nhiều. Cơn cám dỗ ấy có tính thực tiễn, vì có cơ hội thành công hơn
nhiều.
Tôi phải giáp mặt với sự kiện này là ở trong tôi, hiện đang có sự thèm
muốn được sống còn trong tư cách linh mục thượng phẩm, tiên tri, và nhà
văn, và thèm muốn ấy cần bị từ bỏ trước khi tựu chung, tôi có thể là
chính mình.
3. Ngày 23 tháng Mười năm 1961:
Có lẽ tôi đang ở khúc quanh trong cuộc sống thiêng liêng của mình: có lẽ
đang từ từ tiến tới điểm chín mùi, giải quyết được các nghi ngại và quên
đi mọi sợ sệt. Đang bước vào một trận chiến được biết đến và có tính dứt
khoát. Xin Chúa gìn giữ tôi trong trận chiến đấu ấy. Tờ Catholic Worker
(22) vừa phát hành một thông cáo báo chí về bài viết của tôi, một vài
viết rất có thể gây ra nhiều phản ứng, mà cũng có thể chả có phản ứng
nào. Dù sao, xem ra tôi là một trong số ít các linh mục tại nước này dám
không mơ hồ dấn thân vào một cuộc đấu tranh hoàn toàn không khoan nhượng
cho việc bãi bỏ chiến tranh, cho việc dùng các phương thế bất bạo động
để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Từ đó, nó hàm ý không những chống
lại việc dùng bom, chống lại việc thử hạch nhân, chống lại các tầu ngầm
Polaris, mà còn chống mọi hình thức bạo lực. Điều ấy, tôi nhất thiết
phải giải thích đầy đủ khi có dịp. Hành động bất bạo động chứ không phải
là đơn thuần thụ động. Nhưng làm thế nào để có thể kịp thời giải thích
và bênh vực được một quan điểm dứt khoát khi, một bài báo ngắn cũng cần
đến hai,ba tháng, mới có thể vượt qua được các nhà kiểm duyệt của Dòng.
Đó là vấn đề tôi không dám đưa ra câu trả lời.
Tôi nghĩ: xét về một phương diện nào đó, quan điểm của Dòng thực ra
không thực tế chút nào mà còn vô lý nữa. (Quan điểm ấy cho rằng) Vào
thời điểm như hiện nay, hình như không một ai trong Dòng nên quan tâm
một cách thực tiễn tới các thực tại của tình hình thế giới, các đan sĩ
nói chung, ngay cả các đan sĩ Biển Đức có thể lên tiếng một cách trọn
vẹn, cũng chỉ nên chuyên chăm tới các vấn đề có tính bác học liên quan
tới các nhà văn trung cổ và những bản văn ít quan trọng hơn đối với các
học giả, một quan điểm như thế ngay trong thời điểm có cuộc khủng hoảng
tinh thần trầm trọng nhất trong lịch sử con người, theo tôi là điều
không thể hiểu nổi. Nhất là chính sách dứt khoát của Dòng Xi Tô chính
thức chặn đứng hay ngăn cản bất cứ phát biểu quan tâm nào, bất cứ ý kiến
dưới hình thức viết nào nhắc đến cuộc khủng hoảng kia. Điều ấy đối với
tôi hết sức nghiêm trọng. Cho nên nêu vấn đề và tìm cách giải quyết vấn
đề ấy hiển nhiên là điều vô dụng. Tôi từng nói truyện với Cha Clément de
Bourmont, thư ký của Cha Bề Trên Cả, về vấn đề trên, và xem ra như nói
truyện với một bức tường. Hoàn toàn không có hiểu biết và thiếu thiện
cảm. Chính Cha Bề Trên Cả lại hiểu biết hơn và Dom James có đôi chút
nhìn ra vấn đề (một cách đầy ngạc nhiên, các ngài đã cho phép bài
Original Child Bomb (23) được phép công bố sau khi bị các vị kiểm duyệt
khác cấm cản).
Các tu sĩ Dòng Tên không những ủng hộ, mà còn khuyến khích nữa, việc
ngồi tại hầm tránh đạn với súng máy cầm tay để đuổi người khác đi khỏi!
Xem ra đấy mới là điều tốt nhất mà nền thần học Công Giáo có nhiệm vụ
phải cung hiến cho đất nước này.
Ít nhất, tôi cũng cảm thấy mình vô tội chưa tuyên bố quan điểm nào mới
thực sự là quan điểm Công Giáo. Không phải quan điểm coi tự vệ là không
chính đáng, nhưng còn có những viễn tượng bao quát hơn thế mà ta có
nhiệm vụ phải xem sét. Không thể giải quyết các vấn đề của ta dựa vào
căn bản ‘mọi người vì chính mình’ và phải cứu lấy da thịt mình bằng cách
giết chết ngay người đầu hết đe dọa đến da thịt ấy.
Tôi vui mừng thấy mình đã bước một bước ngoặt, có lẽ là bước ngoặt cuối
cùng của đời mình. Cảm thức từ bỏ và niềm vui về nhà, lòng yêu thương
dành cho các tập sinh, những người tôi thấy như đang ngụ cư trong ánh
sáng và phúc lành của Thiên Chúa khi cùng nhau về nhà. Ý tưởng ấy không
tiêu cực cũng không phá hoại chút nào: nó hoàn toàn thoả mãn. Bất cứ
điều gì xẩy ra cho thế giới, điệu vũ hiển linh muôn mầu muôn vẻ của nó
vẫn tiếp diễn, hay có lẽ đang kết cục được biến hình hay hoàn thiện vĩnh
viễn.
4. Ngày 26 tháng Năm năm 1963:
Hôm nay kỷ niệm năm thứ 14 ngày tôi thụ phong linh mục.
Ước chi tôi có thể nói rằng chúng là 14 năm thoả mãn, trật tự và hòa
nhập mỗi ngày một hơn. Chẳng may, sự việc không đúng như thế. Bề mặt,
chúng là những năm tương đối hạnh phúc và nhiều năng xuất, nhưng nay mỗi
ngày tôi mỗi hiểu rõ hơn cái sâu xa trong nỗi thất vọng và tính chung
cuộc rõ ràng trong thất bại của mình. Chắc chắn tôi không thích hợp với
cái khuôn ước lệ hay truyền thống. Có lẽ đó là điều tốt. Tôi không phải
là một nhân vật của J.F. Powers (24). Ấy thế nhưng nỗi thất vọng thì vẫn
vậy. (Tôi không biết liệu mình có phải là một nhân vật của George
Bernanos hay không. Nhưng nhất định không phải là một nhân vật của
Graham Greene) (25). Nhưng cái việc thất bại kia thì quả có đó và xét
theo một phương diện nào đó, tôi thấy có lẽ nó vĩnh viễn. Như thể, phần
nào đó, cuộc đời linh mục của tôi đáng buồn và vô ích, là một bại trận
và thất bại trong cuộc sống đan sĩ. (Có lẽ thôi. Vì dù sao, tôi cũng làm
sao biết được?)
Tôi có được cảm thức rất chân thực này là cuộc đời ấy chỉ là một thứ nói
dối, một trò đố chữ. Với mọi cố gắng đầy lầm lỗi ngớ ngẩn của tôi để
được thành thực, tôi thực sự đã không làm gì để thay đổi được tình huống
trên.
Chắc chắn tôi không phải là mẫu mực của đức hạnh linh mục. Tuy hình như
tôi không cố ý phạm tội trong các vấn đề nghiêm trọng, nghĩa là không
phạm tội với đầy đủ ý thức. Nhưng quả có những thất bại liên tiếp, những
thất bại không đếm xuể, giống như những lỗ thủng xuất hiện chằng chịt
trên tấm áo cũ. Không gì có thể vá lại một cách hữu hiệu được. Những con
mối đã gậm nhắm trọn bản thân tôi trong khi tôi mù mờ ráng bám lấy điều
đối với tôi xem ra có giá trị, quan trọng hay cần thiết để sinh tồn.
Từng có một nỗi thất vọng choáng váng trong các cố gắng bán ý thức muốn
duy trì căn tính của tôi, trong khi tôi bị sói mòn bởi tính vô dụng, cứ
đổi mới hàng ngày, của một cuộc hiện sinh chỉ đạt năng xuất nửa vời.
Tôi không luôn luôn điều độ. Nếu ra phố và có ai đó mời uống, tôi khó mà
cưỡng được việc uống ly thứ hai hay ngay cả ly thứ ba. Và có khi tôi còn
đi quá cả cái trivium perfectum, ‘cái ly thứ ba hoàn hảo’. Một đan sĩ mà
như thế sao?
Có lẽ sự yếu đuối chính là thiếu can đảm thực sự để có thể chống đỡ được
các áp lực của cuộc sống đan sĩ và linh mục. Dù gì, tôi cũng đã mỏi mệt.
Tôi rất dễ bị ngã lòng. Các cơn trầm cảm mỗi ngày một sâu xa thêm, mỗi
ngày một thường có hơn. Tôi đã gần 50. Người ta nghĩ tôi hẳn phải hạnh
phúc.
Thánh Lễ của tôi vào mỗi buổi sáng chắc chắn là niềm vui lớn, và tôi
nghiêm chỉnh tham dự Thánh Lễ ấy. Trong nó, đôi lúc tôi thấy một ý nghĩa
cao cả mà lại giản đơn, cao cả hơn điều tôi có thể hiểu. Nhưng đôi khi
cũng có những giây phút âu lo căng thẳng không tài nào nói ra được.
Cuối cùng theo tôi, điều tôi loay hoay xưa nay là chống lại việc cưỡng
đặt một hình thức linh mục có sẵn, một khuôn mẫu đơn tu có sẵn. Tôi ương
ngạnh nhất định tránh cho bằng được việc bị hấp thụ (absorbed) hòan toàn
vào chức linh mục, và tôi không rõ liệu đó có phải là hèn nhát hay chính
trực. Hình như không có cách gì thực sự giúp tôi trả lời rõ được điều
đó.
Chú Thích
(20) Mùa Xuân Im Lặng; một nhà hải sinh vật học người Mỹ. Cuốn này, xuất
bản năm 1962, đã gây ra một quan tâm sinh thái chưa từng thấy tại Hoa
Kỳ, lật ngược lại chính sách diệt côn trùng hiện có, đưa đến việc hủy bỏ
thuốc DDT.
(21) Trích trong The Intimate Merton, His Life from his Journal, A Lion
Book, 1999.
(22) Thợ Thuyền Công Giáo của Dorothy Day
(23) Trái Bom Nguyên Sinh
(24) James Farl Powers, 1917-1999, là một tiểu thuyết gia Công Giáo
người Mỹ, rất nổi tiếng về các nghiên cứu đối với các linh mục Công Giáo
miền trung tây, từng phản đối Thế Chiến II
(25) Georges Bernanos 1888-1948, là một tác giả Công Giáo người Pháp nổi
tiếng với các tác phẩm Journal d'un curé de campagne [nhật ký một cha xứ
nhà quê] 1936, Dialogues des carmélites [Các đối thoại của nữ tu
Các-men] 1949; Henry Graham Greene,1904 –1991, một tác giả, theo chính
ông, là người Anh theo đạo Công Giáo; các thể tài Công Giáo giữ vai chủ
chốt trong các sáng tác của ông, nhất là trong 4 tác phẩm lớn Brighton
Rock, The Heart of the Matter, The End of the Affair và The Power and
the Glory. Năm 1953, Thánh Bộ Tín Lý thông báo cho ông hay: cuốn The
Power and the Glory gây nguy hại cho danh tiếng hàng linh mục; nhưng sau
đó, ông được chính Đức Phaolô VI, trong một buổi triều yết riêng, cho
hay: dù một phần tiểu thuyết của ông xúc phạm đến một số người Công
Giáo, ông không nên quan tâm đến các lời chỉ trích. |