TRƯỚC HẾT, LINH MỤC PHẢI LÀ CON NGƯỜI |
|
ĐGM. BÙI TUẦN |
Khi nhìn vào con người linh mục của tôi, tôi nghe thấy biết bao tiếng gọi “hãy là” như: Hãy là linh mục của Thiên Chúa tình yêu, sống đúng thân phận người con hiếu thảo của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Hãy là linh mục của Hội Thánh Đức Kitô dấn thân cho Tin M?ng cứu độ. Hãy là linh mục của Công đồng Vatican II, biết có một cái nhìn đúng đắn mới mẻ về Hội Thánh trong tương quan với thế giới hôm nay. Hãy là linh mục của thế giới thứ ba, nơi mà đức tin không được phép tách rời khỏi cuộc sống đang trên đà phát triển giữa nhiều phức tạp. Hãy là linh mục của nền văn hóa Á Châu, một thứ văn hóa vừa nặng yếu tố lý trí, vừa giàu yếu tố tâm linh. Hãy là linh mục của nước Việt Nam độc lập, biết có một bản lĩnh hợp lý trong các tương quan quốc tế. Hãy là linh mục của địa phương tôi, nơi có nhiều tôn giáo nổi về công việc từ thiện, tinh thần dân tộc và tình hiểu thảo đối với tổ tiên. Hãy là linh mục của cuối thế kỷ 20, một thời đại đang có nhiều chuyển biến lớn lao và mau lẹ về kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa và tôn giáo, đòi hỏi một tân phúc âm hóa thích hợp. Chỉ bằng ấy tiếng gọi thôi cũng đủ khiến tôi cảm thấy mình rất mực là nghèo. Phải học thêm, phải tìm tòi thêm, phải làm việc thêm. Tiếng gọi nào cũng khẩn cấp cả. Nhưng giữa nhưng khẩn cấp ấy, tôi nghe một tiếng gọi nhỏ nhẹ mà rất thiết tha, rất khẩn cấp: “Trước tiên, hãy là con người”. Đúng là như vậy. Phải là con người xứng danh con người đã. Phải học làm người với những đức tính làm người đã: Nhân ái, nhân bản, nhân các, nhân đạo, nhân phẩm, nhân hậu, nhân nghĩa, nhân tâm, nhân trí, nhân văn... Đừng tưởng đã là linh mục thì việc phục vụ sẽ hữu hiệu bằng chức năng linh mục, không cần đến các điều kiện con người. Không đâu. Sẽ đến thời tục quyền, tục hóa lan rộng như hiện nay trên các nước Thiên Chúa giáo tại Châu Âu. Sẽ đến thời có nhiều tôn giáo mạnh. Lúc đó người ta sẽ ít để ý đến chức này quyền nọ, mặc dù theo chúng ta đó là chức thánh và thần quyền. Lúc đó người ta sẽ không mấy quan tâm đến niềm tin tôn giáo của đạo chúng ta. Nhưng lúc đó, người ta sẽ nhìn linh mục và đánh giá linh mục nhiều hơn theo các giá trị nhân bản. Ngài là người thế nào? Có thái độ nào trong các tương quan giữa người với người? Có hiền lành và khiêm tốn không? Thiện chí phục vụ, khả năng phục vụ và cách phục vụ thế nào đối với đồng bào, với người dưới, người trên, người nghèo khổ, người bệnh tật, người bị bỏ rơi? Khả năng nhạy bén, nắm bắt tình hình có sâu sắc không? Khả năng ứng xử với các bất ngờ có đủ sáng suốt không? Khả năng phấn đấu với chính mình và với các khuynh hướng xấu có kiên cường và khôn ngoan không? Cách đi đứng, cách nói năng, cách ăn uống có tế nhị, tự trọng, lịch sự, xứng với một trình độ văn hóa có thể chấp nhận được không? Có lương thiện trong các phán đoán không? Có tế nhị, khiêm tốn trong những cái nhìn về các giá trị mới mà mình chưa quen, chưa hiểu không?... Nói chung, hãy sống cho ra người với mức độ cao nhất của tính người, mà mình có thể vươn tới được. Rồi từ đó sẽ xây dựng lên tòa nhà thánh thiện với các nhân đức siêu nhiên. Với những kinh nghiệm bản thân, tôi đọc lại những giáo huấn của Tòa Thánh về vấn đề giáo dục nhân bản nơi người linh mục. Thiết tưởng sự nhắc lại và thực thi những giáo huấn này là rất cần thiết tại Việt Nam hôm nay. Xin trích vài đoạn: “Linh mục không được quên mình là con người được chọn giữa nhiều người, để phục vụ con người. Để thánh hóa mình và để thành công sứ mạng linh mục, các ngài phải trình diện mình với một hành trang gồm nhiều đức tính nhân bản xứng đáng được đồng bào mình quý mến. Cách riêng, linh mục sẽ phải thực thi tính nhân ái của con tim, đức kiên nhẫn, tính dễ thương, sức mạnh tâm hồn, lòng yêu mến sự công chính, cảm thức được sự quân bình, sự trung tín trong lời hứa, sự biết ăn khớp với những dấn thân tự nguyện. “Cũng cần linh mục suy nghĩ về thái độ xã hội của mình, về sự đúng đắn trong cách hình thức quan hệ giữa người với người, về giá trị tình bạn, về tính cách khác biệt của cách sống của mình” (Bộ Giáo sĩ, Chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục, số 77, 1994). “Được kêu gọi trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu là Đầu và là Mục tử của Giáo hội, linh mục phải tìm cách phản ánh trong mức độ có thể sự hoàn thiện nhân bản chiếu tỏa từ Con Thiên Chúa làm người và biểu lộ một hiệu quả khác thường qua thái độ đối xử với tha nhân. Do đó, huấn luyện nhân bản cho linh mục mang một tầm quan trọng đặc biệt đối với mối quan hệ giữa linh mục và những đối tượng của sứ vụ linh mục. Để cho linh mục được người ta dễ tín nhiệm và dễ chấp nhận hơn, linh mục cần rèn luyện nhân cách của mình. Linh mục nhất thiết phải có khả năng hiểu biết chiều sâu tâm trí con người, trực giác về những khó khăn và những vấn đề, mở đường cho gặp gỡ và đối thoại, tạo được sự tín nhiệm và sự hợp tác, phát biểu những nhận định bình tĩnh và khách quan... Do đó, cần thiết phải giáo dục lòng quý trọng sự thực, lòng thành tín, lòng tôn trọng con người, ý thức công bình, giữ lời hứa, lòng thương cảm, tính mạch lạc và đặc biệt là tính quân bình trong phán đoán và trong đối xử... Thiếu huấn luyện nhân bản đầy đủ, toàn bộ công cuộc đào tạo linh mục sẽ mất đi nền móng cần thiết” (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 43,1992). Những nhận định trên đây là rất xác đáng, cần chúng ta suy nghĩ, để có kế hoạch tự giáo dục mình về nhân bản. Các chuyển biến xã hội hiện nay cho thấy: Rồi đây, trong việc truyền giáo và mục vụ, con người sẽ là yếu tố rất mực quan trọng. Hãy là con người tốt với đầy đủ các đức tính nhân bản cần thiết. Hãy biết kính trọng và yêu thương con người với những khác biệt. Hãy biết sống tình nghĩa bao dung với con người và cộng tác với con người. Hãy biết phục vụ con người, bằng cách đem lại cho con người những gì họ cần họ thiếu đúng lúc và đúng cách, chứ không phải bằng cách phân phát cho họ những gì mình có theo ý riêng mình. Hãy làm chứng chiều kích thiêng liêng trong chính việc phục vụ con người. Hãy là men bác ái. Hãy là muối hy vọng. Tôi có cảm tưởng này là thời nay một linh mục sống và chết trong tinh thần kinh Tin Kính của Hội Thánh, nếu chỉ đề cao đức tin, sẽ không gây được mấy ảnh hưởng nơi dân chúng, cho bằng một linh mục sống và chết trong tinh thần kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô đề cao bác ái. Lý do rất dễ hiểu. Bởi vì tinh thần kinh Hòa Bình là cả một bầu trời đức tin gặp gỡ và phục vụ con người trong tình thương tự nhiên và siêu nhiên, rạng ngời đằm thắm, chan chứa vị tha. Người ta nhìn thấy được, người ta cảm nhận được, nhờ đó cái tốt nơi con người được đánh thức dậy, lòng người được cải hóa. Hãy là người với cái tâm sáng, với lòng nhân rộng, đó là một khởi đầu tốt cần thiết. |