NĂM ĐỨC TIN


THÔNG ĐIỆP

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN - LUMEN FIDEI

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Vatican Information Service ngày 5/6/2013.

THÔNG ĐIỆP

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN - LUMEN FIDEI
CỦA ĐỨC THÁNH CHA

PHANXICÔ
CHO CÁC GIÁM MỤC
, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THÁNH HIẾN
VÀ TÍN HỮU GIÁO DÂN
VỀ ĐỨC TIN

Phần Tóm Lược


 
Dẫn nhập của người dịch:
 
Thông Điệp ASĐT là bức thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô, được ngài ký ban hành ngày 29/6/2013, Lễ trọng kính Thánh Phêeô và Phaolô và được phổ biến Thứ Sáu Đầu Tháng ngày mùng 5/6/2013.
 
Bức thông điệp đầu tay này của ĐTC Phanxicô, như ngài viết, là do ĐTC Biển Đức XVI để lại và đã biên soạn "gần xong - almost completed" và ngài chỉ "đóng góp thêm" vào "bản nháp đầu" mà thôi. Đó là lý do ngài đã ban hành bức thông điệp đầu tiên của mình nhanh hơn 2 vị tiền nhiệm, chỉ trong vòng 3 tháng rưỡi, từ ngày đăng quang 19/3/2013 cho đến ngày ký ban hành ngày 29/6/2013.
 
Trong khi đó, bức thông điệp đầu tay Redemptor Hominis của ĐTC GPII cần một thời gian gần 5 tháng rưỡi, từ ngày ngài đăng quang 22/10/1978 đến ngày ký ban hành mùng 4/3/1979. Và bức thông điệp đâu tiên Deus Catitas est của ĐTC Biển Đức XVI mất 8 tháng trời, từ ngày ngài đăng quang 24/4/2005 tới khi ban hành là ngày 25/12/2005.
 
Bố cục của bức thông điệp ASĐT, ngoại trừ phần mở và phần kết, bao gồm 4 phần chính. Sau đây là tóm lược nội dung của bức thông điệp này, thứ tự từng phần của nó như sau.  
 
Phần Mở (1-7)
 
Trước hết, bức thông điệp ASĐT lập lại những đặc tính của ánh sáng hợp với đức tin, nó có thể chiếu soi toàn thể cuộc sống của con người, trợ giúp họ trong việc phân biệt lành dữ, nhất là trong thời đại tân tiến này, một thời đại chống lại việc tìm kiếm niềm tin và đức tin được coi như là một thứ ảo tưởng, một thứ hụt hẫng rỗng tuyếch làm cản trở tự do của con người. Thứ đến, ASĐT - nhất là trong Năm Đức Tin này, 50 năm sau Công đồng Chung Vaticanô II, một 'Công Đồng về đức tin' - đang tìm cách tái kiên cường nhận thức về chiều rộng của những chân trời đức tin hướng tới nhờ đó đức tin được tuyên xưng một cách hiệp nhất và tuyền vẹn. Thật vậy, đức tin không phải là một điều kiện hiển nhiên, mà là một tặng ân Thiên Chúa ban, cần phải được nuôi dưỡng và củng cố. Đức Thánh Cha viết "ai tin tưởng thì trông thấy", vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và có thể chiếu soi tất cả mọi chiều kích của đời sống con người: nó tiến phát từ quá khứ, từ việc tưởng nhớ đến cuộc đời của Chúa Giêsu, thế nhưng nó cũng xuất phát từ tương lai khi hướng về những chân trời rộng mở.
 
Chương Nhất (8-22): Chúng tôi tin tưởng trong yêu thương (1Gioan 4:16).
 
Trong chương này, căn cứ vào hình ảnh của Abraham, đức tin được giải thích như là "việc lắng nghe" lời Chúa, là "tiếng gọi" tiến tới từ cái tôi lẻ loi cô độc để hướng mình đến một sự sống mới và là "một thứ hứa hẹn" về tương lai có thể khả dĩ hóa việc tiến bước của chúng ta qua giòng thời gian rất liên hệ với niềm hy vọng. Đức tin cũng chất chứa một ý nghĩa về "tính cách thân phụ", vì Thiên Chúa là Đấng kêu gọi chúng ta không phải là một kẻ xa lạ mà là Thiên Chúa Cha, là nguồn mạch thiện hảo làm xuất phát và bảo trì hết mọi sự. Trong lịch sử của dân Israel, đức tin là những gì nghịch lại với ngẫu tượng, những thứ ngẫu tượng khiến cho vô số ước muốn của con người bị tan vỡ và khiến cho "tình tiết cuộc đời của họ bị phân mảnh ra thành vô số những giây phút rời rạc", không cho họ thời gian để đợi chờ việc hoàn trọn lời hứa hẹn. Ngược lại, đức tin là niềm tín thác vào tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, là những gì bao giờ cũng đón nhận và tha thứ, và là những gì làm bằng phẳng "những đường lối quanh co nơi giòng lích sử của chúng ta"; đức tin là sự tình nguyện để cho bản thân mình được tái biến đổi bởi "tặng không nhưng không của Thiên Chúa là những gì đòi hỏi lòng khiêm hạ và can đảm để tin tưởng và phó thác; đức tin giúp chúng ta có thể thấy được con đường sáng tỏ dẫn đến cuộc hội ngộ của Thiên Chúa với nhân loại, đến lịch sử ơn cứu độ" (khoản 14). Và trong đó chất chứa "cái nghịch thường" của đức tin, đó là việc liên lỉ hướng về Chúa là những gì cống hiến cho nhân loại sự bền vững, là những gì giải thoát chúng ta khỏi những thứ ngẫu tượng.
 
ASĐT bởi thế hướng về hình ảnh Chúa Giêsu, vị trung gian hướng chúng ta về một sự thật cao cả hơn chính bản thân chúng ta, về việc tỏ hiện tình yêu của Thiên Chúa là nền tảng của đức tin: "đức tin trở nên mãnh liệt hơn trong việc chiêm ngưỡng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu", vì nơi cuộc tử nạn này Người mạc khải cho thấy tình yêu bất khả lay chuyển của Người đối với nhân loại. Cuộc phục sinh của Người cống hiến cho Đức Kitô "một chứng từ đáng tin", "xứng với đức tin", Đấng mà nhờ Người Thiên Chúa thực sự hoạt động qua giòng lịch sử, ấn định số phận tận cùng của nó. Thế nhưng đức tin vào Chúa Giêsu có một "chiều kích quyết liệt", đó là "việc tham phần vào đường lối nhìn ngắm của Người". Thật vậy, đức tin chẳng những là việc nhìn vào Chúa Giêsu mà còn là việc nhìn từ quan điểm của Chúa Giêsu nữa, bằng ánh mắt của Người. Đức Giáo Hoàng giải thích vấn đề này khi so sánh với cách thức xẩy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta, ở chỗ chúng ta đặt niềm tin tưởng của chúng ta vào "kẻ khác là thành phần hiểu biết hơn chúng ta" - chẳng hạn như vào kiến trúc sư, vào dược sĩ, vào luật sư - thì đức tin cũng vậychúng ta cần một ai đó đáng tin cậy và thông biết "về những gì liên quan tới Thiên Chúa" và Chúa Giêsu là "Đấng tỏ Thiên Chúa ra cho chúng ta". Bởi thế, chúng ta tin Chúa Giêsu khi chúng ta chấp nhận Lời của Người, và chúng ta tin vào Chúa Giêsu khi chúng ta đón nhận Người trong cuộc sống của chúng ta và phó mình cho Người. Thật vậy, việc nhập thể của Người là những gì bảo đảm rằng đức tin không tách chúng ta khỏi thực tại, trái lại còn giúp chúng ta nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của nó. Nhờ đức tin, con người cứu được bản thân mình, khi họ cởi mở bản thân mình ra cho một Tình Yêu có trước họ và biến đổi họ từ bên trong. Đó là tác động thực sự của Thánh Linh: "Kitô hữu có thể thấy bằng con mắt của Chúa Giêsu và thông phần với ý nghĩ của Người, với tâm tình con cái của Người, vì họ được tham dự vào tình yêu của Người đó là Thần Linh" (khoản 21). Không có sự hiện diện của Thần Linh không thể nào tuyên xưng Chúa. Thế nên, "đời sống của người tín hữu trở thành một đời sống của giáo hội", vì đức tin được tuyên xưng trong thân mình Giáo Hội, khi có "mối hiệp thông cụ thể của các tín hữu". Kitô hữu là "một" mà không mất đi tính chất cá nhân của họ và họ tiến vào những gì là của họ bằng việc phục vụ người khác. Bởi vậy, "đức tin không phải là một vấn đề riêng tư, một khái niệm hoàn toàn cá nhân hay là một ý kiến riêng tư", trái lại, "đức tin xuất phát từ việc nghe thấy và nhắm tới việc được bày tỏ ra bằng lời nói và được loan báo".
 
Chương Hai (23-36): Trừ phi anh em tin bằng không anh em không hiểu được (Is 7:9).
 
Đức Giáo Hoàng cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và sự thật, một sự thật đáng tin về Thiên Chúa, về sự hiện diện trung thành của Ngài dọc suốt giòng lịch sử. Đức Giáo Hoàng viết: "Đức tin thiếu vắng sự thật không phải là đức tin cứu độ. Nó chỉ là một câu truyện mỹ miều, một thứ dự phóng của niềm sâu xa khát vọng hạnh phúc của chúng ta". Ngày nay, trước "cuộc khủng hoảng về sự thật trong thời đại của chúng ta", càng cần hơn trước đây việc phải nhắc lại mối liên hệ này, khi mà văn hóa đương thời có xu hướng chỉ chấp nhận sự thật về kỹ thuật, những gì con người có khả năng tác tạo và đo lường được bằng khoa học, thứ sự thật "công hiệu", hay đúng hơn, những sự thật chọn lọc chỉ có giá trị đối với cá nhân chứ không giúp gì cho công ích. Ngày nay chúng ta cảm thấy ngờ vực "chính Sự Thật, một sự thật có thể toàn diện dẫn giải cuộc sống của chúng ta ở lãnh vực cá nhân cũng như trong xã hội", như thể nó được liên kết một cách sai lạc với những sự thật được những hình thức chuyên chế độc quyền của thế kỷ 20 tuyên bố. Tuy nhiên, điều này dẫn đến một thứ "tình trạng quên lãng lung tung nơi thế giới đương thời của chúng ta", một tình trạng - trước tính chất thịnh hành của chủ nghĩa tương đối và trong mối lo âu của chủ nghĩa cuồng tín - quên đi vấn đề về sự thật này, về nguồn gốc của tất cả mọi sự - vấn đề về Thiên Chúa. ASĐT bởi thế nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa đức tin và yêu thương, một thứ yêu thương không được hiểu là "cảm xúc nhất thời", mà là tình yêu cao cả của Thiên Chúa làm chúng ta biến đổi từ bên trong và ban cho chúng ta những ánh mắt mới nhờ đó chúng ta có thể thấy được thực tại. Thế nên, nếu đức tin liên kết với sự thật và tình yêu thì "tình yêu và sự thật là những gì bất khả phân ly", vì chỉ có tình yêu chân thật mới có thể đứng vững trước cuộc thử thách của thời gian và trở nên nguồn mạch kiến thức. Và vì kiến thức đức tin được xuất phát từ tình yêu thủy chung của Thiên Chúa, mà "sự thật và lòng trung thành cùng nhau song hành sánh bước". Sự thật nào bày tỏ cho thấy đức tin là một sự thật được tập trung vào cuộc gặp gỡ Chúa Kitô nhập thể, Đấng, đến giữa chúng ta, đã chạm đến chúng ta và ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, biến đổi tâm can của chúng ta.
 
Đến đây, Đức Giáo Hoàng bắt đầu chia sẻ nhiều hơn về "cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí", về sự thật trong thế giới ngày nay, một thế giới mà trong đó nó thường bị biến thành một "thứ chuyên chính chủ quan", như là một thứ sự thật chung gây ra lo âu sợ hãi, và thường đồng nghĩa với những đòi hỏi bất khoan nhượng của chủ nghĩa chuyên chế độc tài. Trái lại, sự thật nào là sự thật về tình yêu của Thiên Chúa thì không bị áp đặt một cách bạo lực và không chà đạp cá nhân con người. Bởi vậy, đức tin không phải là những gì bất khoan nhượng, và tín hữu không phải là kẻ ngạo mạn. Trái lại, đức tin giúp cho tín hữu trở nên khiêm hạ và dẫn tới cuộc sống chung với kẻ khác và cho kẻ khác. Từ đó đức tin tiến tới chỗ đối thoại ở tất cả mọi lãnh vực: ở lãnh vực của khoa học, khi nó làm bừng lên cái cảm thức nhận định và mở rộng chân trời lý trí, kêu mời chúng ta lạ lùng chiêm ngưỡng Thiên Nhiên Tạo Vật; trong lãnh vực đối thoại liên tôn, một lãnh vực Kitô giáo cống hiến những đóng góp của mình; trong việc đối thoại với những người vô tín ngưỡng không ngừng tím kiếm, thành phần "nỗ lực tác hành như thể Thiên Chúa hiện hữu", vì "Thiên Chúa là ánh sáng và cũng có thể được gặp thấy bởi những ai tìm kiếm Ngài với tấm lòng thành". Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng: "Ai bắt đầu thực hiện việc làm lành cho người khác là đã tiến gần tới với Thiên Chúa". Sau hết, ASĐT nói về thần học và khẳng định rằng thần học sẽ trở thành bất khả nếu thiếu đức tin, vì Thiên Chúa không phải chỉ là một thứ "đối tượng" mà hơn nữa còn là chính Chủ Thể tỏ mình ra. Thần học là việc tham dự vào kiến thức Thiên Chúa có về bản thân Ngài; bởi vậy, thần học cần phải được đem ra phục vụ đức tin Kitô giáo, và Huấn Quyền của Giáo Hội không phải là một thứ hạn chế đối với vấn đề tự do về thần học, trái lại là một trong những yếu tố nội tại của nó vì nó bảo đảm việc liên hệ với mạch nguồn của nó là Lời của Chúa Kitô.
 
Chương Ba (37-49): Tôi truyền đạt cho anh chị em những gì tôi đã lãnh nhận (1Cor 15:3)

Chương này hoàn toàn tập trung vào tầm quan trọng của việc truyền bá phúc âm hóa: ai cởi mở mình ra trước tình yêu của Thiên Chúa thì không thể giữ lấy tặng ân này cho bản thân mình, Đức Giáo Hoàng viết như thế. Ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu tỏa trên dung nhan của Kitô hữu và lan tỏa ra như thế, đưoọc truyền đạt nhờ giao tiếp với một ngọn lửa được thắp lên từ người khác, và lan truyền từ đời nọ đến đời kia, bằng một sợi giây liên tục các chứng nhân đức tin. Điều này dẫn đến một mối liên hệ giữa đức tin và việc tưởng nhớ vì tình yêu của Thiên Chúa là những gì giữ cho tất cả mọi thời điểm hiệp nhất nên một, biến chúng ta thành những người đồng thời của Chúa Kitô. Hơn nữa, "tự mình chúng ta không thể nào tin", vì đức tin không phải là "một quyết định cá nhân", trái lại hướng "cái tôi" đến cái "chúng tôi" và bao giờ cũng xẩy ra "trong cộng đồng Giáo Hội". Bởi thế, "những ai tin không bao giờ lẻ loi cô độc", vì họ khám phá ra rằng những nơi chốn của bản thân nở rộng và phát sinh ra những liên hệ mới làm phong phú cuộc đời.
Tuy nhiên, đức tin được truyền đạt "một cách đặc biệt" đó là "các Bí Tích", trong đó một "thứ tưởng nhớ nhập thể" được thông đạt. Trước hết Đức Giáo Hoàng nhắc tới Phép Rửa - cho cả trẻ em lẫn người lớn, theo hình thức của thành phần tân tòng - là những gì nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không phải là việc làm của một cá nhân đơn độc, một tác động có thể được thi hành một mình, mà cần phải được lãnh nhận, trong mối hiệp thông giáo hội. ASĐT giải thích rằng: "Không ai tự rửa tội lấy cho mình". Hơn nữa, vì trẻ em được rửa tội không thể tự mình tuyên xưng đức tin mà cần phải được trợ giúp của cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu, mà "việc hợp tác giữa Giáo Hội và gia đình" là cần thiết. Sau nữa, bức Thông Điệp này nói đến Thánh Thể, "một dưỡng thực quí báu cho đức tin", "một tác động tưởng nhớ, làm hiện thực hóa mầu nhiệm này", một tác động "dẫn từ thế giới hữu hình sang thế giới vô hình", dạy cho chúng ta biết cảm nghiệm thấy chiều sâu của thực tại. Thế rồi Đức Giáo Hoàng nói đến vấn đề tuyên xưng đức tin, đó là Kinh Tin Kính, trong đó tín hữu chẳng những tuyên xưng đức tin mà còn đưoọc bao gồm trong sự thật mà họ tuyên xưng; kinh nguyện, Lạy Cha, nhờ đó Kitô hữu biết nhìn bằng ánh mắt của Chúa Kitô; Thập Giới, không được hiểu như là "một bộ lệnh truyền tiêu cực" mà là như "những hướng dẫn cụ thể" để được đối thoại với Thiên Chúa, "để được tình thương của Ngài ấp ủ", là 'đường lối tri ân cảm tạ" hướng về tầm vóc hiệp thông viên trọn với Thiên Chúa. Sau cùng, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến vấn đề có một đức tin duy nhất bởi "sự duy nhất của Vị Thiên Chúa được nhận biết và tuyên xưng", vì nó hướng tới một Chúa duy nhất, Đấng ban cho chúng ta "một ánh mắt chung" và "được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội chỉ là một thân thể và có một Thần Linh". Thế nên, vì chỉ có một đức tin duy nhất mà cần phải tuyên xưng một cách tinh tuyền và toàn vẹn: "sự hiệp nhất của đức tin là mối hiệp nhất của Giáo Hội"; việc giảm thiểu đi một điều gì đó khỏi đức tin là giảm thiểu một cái gì đó khỏi tính chất chân thực của mối hiệp thông. Hơn nữa, vì sự hiệp nhất của đức tin là sự hiệp nhất của một cơ cấu sống động mà nó có thể đồng hóa tất cả những gì nó gặp gỡ, chứng tỏ mình có tính chất toàn cầu, công giáo, chiếu soi và có thể dẫn tất cả vũ trụ cùng toàn thể lịch sử đến chỗ tỏ hiện tốt đẹp nhất của mình. Mối hiệp nhất này được bảo đảm bởi việc thừa kế tông đồ.  

Chương Bốn (50-60): Thiên Chúa sửa soạn một thành đô cho họ (Heb 11:16).

Chương này là chương dẫn giải mối liên hệ giữa đức tin và công ích, một thứ công ích dẫn đến việc tác tạo nên một nơi chốn trong đó những con người nam nữ có thể cùng nhau chung sống. Đức tin, được xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, kiên cường các mối liên hệ của nhân loại và dấn thân phục vụ công ích, cho các quyền lợi và cho hòa bình. Đó là lý do tại sao nó không tách mình ra khỏi thế giới và không thể nào không liên hệ tới những việc dấn thân thực sự của con người đương thời. Ngược lại, thiếu tình yêu thiên Chúa là nơi chúng ta có thể tin tưởng, các mối liên hệ giữa con người chỉ được xây dựng trên thực dụng, lợi lộc và sợ hãi. Thế nhưng đức tin là những gì nắm bắt được nền tảng sâu xa nhất của các mối liên hệ của con người, định mệnh tối hậu của họ nơi Thiên Chúa, và dấn thân phục vụ công ích. Đức tin "là để cho tất cả, nó là một thứ công ích"; mục đích của nó không phải chỉ để xây dựng kiếp sau mà là để giúp kiến tạo nên các xã hội của chúng ta nhờ đó chúng có thể cùng nhau tiến phát về một tương lai của niềm hy vọng.
Bức Thông Điệp này thế rồi xét tới những lãnh vực được đức tin soi chiếu: trước hết và trên hết đó là gia đình được xây dựng trên hôn nhân, được hiểu như là một mối hiệp nhất vững vàng giữa nam và nữ. Điều này xuất phát từ việc nhìn nhận và chấp nhận sự thiện của tính chất khác biệt về phái tính, và căn cứ vào tình yêu trong Chúa Kitô, hứa quyết "một tình yêu muôn thuở" và nhìn nhận tình yêu như là tác nhân trong việc sinh sản con cái. Tiếp đến là giới trẻ; ở đây Đức Giáo Hoàng kể ra các Ngày Giới Trẻ Thế Giới, trong đó giới trẻ cho thấy "niềm vui của đức tin" và việc họ dấn thân sống đức tin một cách vững chắc và quảng đại. Đức Giáo Hoàng viết: "Giới trẻ muốn sống cuộc đời viên trọn nhất. Cuộc gặp gỡ Chúa Kitô... mở rộng chân trời cuộc sống, cống hiến cho cuộc sống một niềm hy vọng mạnh mẽ sẽ không làm thất vọng. Đức tin không phải là nơi nương náu cho tâm can chán chường mà là một cái gì đó tăng bổ đời sống của chúng ta". Và, một lần nữa, nơi tất cả các mối liên hệ về xã hội, thật vậy, bằng việc làm cho chúng ta nên con cái của Thiên Chúa, đức tin cống hiến một ý nghĩa mới cho tình nghĩa huynh đệ phổ quát, không phải chỉ ở chỗ bình đẳng mà còn là cảm nghiệm chung về thân phụ tính của Thiên Chúa, về nhận thức cái phẩm vị đặc thù của từng người. Một lãnh vực nữa đó là lãnh vực về thiên nhiên: đức tin giúp chúng ta tôn trọng nó, "tìm thấy những mẫu mực phát triển không chỉ dựa vào thực dụng và lợi ích mà còn coi thiên nhiên tạo vật là một tặng ân". Đức tin dạy chúng ta tìm thấy những hình thức chính quyền công minh, trong đó quyền bính xuất phát từ Thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin cống hiến cho chúng ta khả năng tha thứ đến độ thắng vượtđược tất cả mọi thứ xung khắc. Đức Giáo Hoàng viết: "Khi đức tin trở nên yếu kém, những nền tảng của nhân loại cũng có cơ nguy suy yếu", và nếu chúng ta loại trừ niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa đi khỏi các thành đô của chúng ta chúng ta sẽ đánh mất lòng tin tưởng nhau của chúng ta và trở nên hiệp nhất chỉ vì sợ hãi. Thế nên, chúng ta không được tỏ ra xấu hổ trong việc công khai tuyên xưng Thiên Chúa, vì đức tin soi sáng đời sống xã hội. Một lãnh vực khác được đức tin soi chiếu đó là lãnh vực khổ đau và chết chóc: Kitô hữu biết rằng không thể nào loại trừ được đau khổ thế nhưng nó được cống hiến cho một ý nghĩa; nó có thể được ký thác vào bàn tay của Thiên Chúa là Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta và do đó nó trở thành "một thời khắc gia tăng đức tin". Đối với những ai khổ đau, Thiên Chúa không cho biết những lý do để cắt nghĩa hết mọi sự, mà là cống hiến sự hiện diện của Ngài là những gì hỗ trợ chúng ta, là những gì mở ra ngưỡng cửa ánh sáng trong tăm tối. Theo chiều hướng ấy thì đức tin liên quan tới hy vọng. Và tới đây Đức Giáo Hoàng lên tiếng kêu gọi: "Chúng ta hãy đừng để cho mình bị cướp mất niềm hy vọng, hay để cho niềm hy vọng của mình trở nên lờ mờ bởi những giải đáp và giải quyết dễ dãi ngăn bản bước tiến của chúng ta". 

Phần Kết (58-60): Phúc cho em vì đã tin (Luca 1:45)

Ở phần kết của thông điệp ASĐT, Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta hãy nhìn vào Mẹ Maria, "hình ảnh trọn hảo" của đức tin, vị, là Mẹ của Chúa Giêsu, đã thụ thai "đức tin và niềm vui". Đức Giáo Hoàng đã dâng lời nguyện cầu của ngài lên Mẹ Maria để xin Mẹ trợ giúp con người sống niềm tin của họ, để nhắc nhở chúng ta là những ai tin tưởng thì không bao giờ cô độc và dạy chúng ta nhìn bằng ánh mắt của Chúa Giêsu.

Trang Độc Giả

Trang Nhà