Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình gửi đến tất cả mọi người, mọi cơ cấu tổ
chức và thẩm quyền còn quan tâm tới sứ vụ của gia đình trong thế giới
ngày nay 22/10/1983
Lời Mở Đầu
Xét rằng:
A. Các quyền lợi của con người, cho dù chúng được diễn tả như là quyền
lợi của cá nhân, có một chiều kích xã hội sâu xa là chiều kích được thể
hiện một cách bẩm sinh và trọng yếu nơi gia đình (x. "Rerum novarum",
no. 9; "Gaudium et spes", no. 24.);
B. Gia đình được đặt nền tảng trên hôn nhân là cuộc hợp nhất thân mật
của một đời sống hỗ tương giữa một người nam và một người nữ, một cuộc
hợp nhất được làm nên bởi việc tự nguyện giao kết, bởi việc công khai
thể hiện mối liên kết hôn nhân bất khả phân ly, và bởi việc hướng về vấn
đề truyền đạt sự sống (x. "Pacem in terris", Part 1; "Gaudium et spes",
nos. 48 and 50; "Familiaris consortio", no. 19; "Codex Iuris Canonici",
no. 1056);
C. Hôn nhân là cơ cấu tự nhiên duy nhất được ký thác cho sứ vụ truyền
đạt sự sống (x. "Gaudium et spes", no. 50; "Humanae vitae", no. 12;
"Familiaris consortio", no. 28);
D. Gia đình, một xã hội tự nhiên, hiện hữu trước Quốc Gia hay bất cứ
cộng đồng nào khác, có những quyền hạn cố hữu bất khả chuyển nhượng (x.
"Rerum novarum", nos. 9 and 10; "Familiaris consortio", no. 45);
E. Gia đình, không phải chỉ là một đơn vị thuần pháp lý, xã hội và kinh
tế, mà là một cộng đồng yêu thương và đoàn kết, một cộng đồng xứng hợp
chuyên biệt để dạy dỗ và truyền đạt những giá trị về văn hóa, chủng tộc,
xã hội, thiêng liêng và tôn giáo, thiết yếu cho việc phát triển và phúc
hạnh của phần tử gia đình mình cũng như của xã hội (x. "Familiaris
consortio", no. 43);
F. Gia đình là nơi các thế hệ khác nhau gặp nhau và giúp nhau phát triển
theo tầm mức khôn ngoan nhân bản và hòa hợp quyền lợi của cá nhân với
các đòi hỏi khác của đời sống xã hội (x. "Gaudium et spes", no. 52;
"Familiaris consortio", no. 21);
G. Gia đình và xã hội, những gì liên hệ với nhau bởi những mối giây quan
thiết và theo cơ cấu, có phận sự bổ túc nhau để bênh vực và phát triển
thiện ích của mọi người và của nhân loại (x. "Gaudium et spes", no. 52;
"Familiaris consortio", nos. 42 and 45);
H. Kinh nghiệm của các nền văn hóa khác nhau suốt giòng lịch sử cho thấy
xã hội cần phải nhìn nhận và bênh vực cơ cấu gia đình;
I. Xã hội, và nhất là Quốc Gia và các Tổ Chức Quốc Tế, cần phải bảo vệ
gia đình bằng các biện pháp có tính cách chính trị, kinh tế, xã hội và
pháp lý, nhằm củng cố mối hiệp nhất và bền vững của gia đình nhờ đó gia
đình có thể thi hành phận sự đặc biệt của mình (x. "Familiaris
consortio", no. 45);
J. Các quyền lợi, các thứ nhu cầu trọng yếu, tình trạng phúc hạnh và
những giá trị của gia đình, cho dù đang được bảo toàn mỗi ngày một hơn ở
một số trường hợp, cũng thường bị bỏ qua và không phải là hiếm thấy xẩy
ra trường hợp bị các thứ luật lệ, cơ cấu và chương trình kinh tế xã hội
làm suy yếu đi (x. "Familiaris consortio", nos. 46);
K. Nhiều gia đình bị bắt buộc phải sống trong những hoàn cảnh nghèo khổ
làm cho họ không thể thi hành vai trò của họ một cách xứng đáng (x.
"Familiaris consortio", nos. 6 and 77);
L. Giáo Hội Công giáo, ý thức được sự thiện hảo của con người, của xã
hội và của chính Giáo Hội qua đường lối gia đình, đã luôn coi gia đình
là một phần trong sứ vụ của Giáo Hội trong việc loan báo cho tất cả mọi
người biết dự án của Thiên Chúa được in ấn nơi bản tính con người liên
quan tới hôn nhân và gia đình, để cổ võ và bênh vực hai cơ cấu ấy đối
với tất cả những ai phạm đến chúng (x. "Familiaris consortio", nos. 3
and 46);
M. Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới năm 1980 đã minh nhiên đề nghị phác họa
một Bản Hiến Chương về Quyền Lợi của Gia Đình và phổ biến cho tất cả
những ai liên hệ (x. "Familiaris consortio", no. 46);
Tòa Thánh, sau khi tham vấn với các Hội Đồng Giám Mục, giờ đây ban hành
“Bản Hiến Chương về Quyền Lợi của Gia Đình”, và tha thiết xin tất cả mọi
Quốc Gia, mọi Tổ Chức Quốc Tế, cùng tất cả mọi Cơ Cấu và con người quan
tâm hãy cổ võ việc tôn trọng các thứ quyền lợi này, và hãy bảo đảm cho
việc thực sự nhìn nhận và tuân giữ chúng.
Khoản 1:
Tất cả mọi người đều có quyền tự do chọn lựa bậc sống của mình, bởi đó
có quyền kết hôn và lập gia đình hay ở độc thân. (x. "Rerum novarum",
no. 9; "Pacem in terris", Part 1; "Gaudium et spes", no. 26; "Universal
Declaration of Human Rights", no. 16, 1)
a) Mọi người nam nữ, khi tiến tới tuổi có thể kết hôn và có khả năng cần
thiết, đều có quyền kết hôn và lập gia đình, hoàn toàn không biệt phân;
những giới hạn trong việc hành sử quyền lợi này, dù có tính cách vĩnh
viễn hay tạm thời, chỉ có thể áp dụng chỉ khi nào những đòi hỏi hệ trọng
và khách quan của chính cơ cấu hôn nhân cũng như tính cách quan trọng về
xã hội và công cộng của cơ cấu này cần đến; trong tất cả mọi trường hợp,
những giới hạn ấy cần phải tôn trọng phẩm vị và các quyền lợi trọng yếu
của con người (x. "Codes Iuris Canonici", nos. 1058 and 1077; "Universal
Declaration", no. 16, 1).
b) Những ai muốn kết hôn và lập gia đình đều có quyền đòi hỏi xã hội
những điều kiện về luân lý, giáo dục, xã hội và kinh tế giúp họ có thể
hành sử quyền kết hôn một cách hoàn toàn chín chắn và hữu trách (x.
"Gaudium et spes", no. 52, "Familiaris consortio", no. 81).
c) Các công quyền cần phải công nhận các thứ giá trị về cơ cấu của hôn
nhân; không được coi trường hợp của những cặp sống không cưới hỏi gì
ngang hàng với thứ hôn nhân có kết ước đàng hoàng (x. "Gaudium et spes",
no. 52; "Familiaris consortio", nos. 81 and 82).
Khoản 2:
Hôn nhân không thể bị kết ước ngoại trừ được đôi phu thê tự nguyện bày
tỏ trọn vẹn lòng ưng thuận của họ một cách xứng hợp (x. "Gaudium et
spes", no. 52; "Codex Iuris Canonici", no. 1057; "Universal
Declaration", nos. 16, 2.).
a) Đối với vai trò truyền thống của các gia đình ở một số nền văn hóa
trong việc giúp con cái quyết định, cần phải tránh tất cả mọi áp lực làm
ngăn trở việc quyết định chọn người phối ngẫu đặc biệt (x. "Gaudium et
spes", no. 52).
b) Những đôi sẽ lấy nhau có quyền tự do tôn giáo. Bởi thế, việc áp đặt
như là một điều kiện cần có để thành hôn là phải chối bỏ niềm tin hay
tuyên xưng niềm tin là những gì trái với lương tâm, vi phạm đến quyền
này (x. "Dignitatis humanae", no. 6).
c) Những người phối ngẫu, theo tính cách bổ túc tự nhiên hiện hữu giữa
nam nhân và nữ giới, đều được hưởng cùng một phẩm vị và những quyền
tương đương về vấn đề hôn nhân (x. "Gaudium et spes", no. 49;
"Familiaris consortio", nos. 19 and 22; "Codex Iuris Canonici", no.
1135; "Universal Declaration", no. 16, 1).
Khoản 3:
Những người phối ngẫu có quyền bất khả nhượng trong việc thành lập gia
đình và quyết định vấn đề thời đoạn sinh sản cùng số con cái sinh ra,
hoàn toàn lưu ý tới nhiệm vụ của họ với chính họ, với con cái đã được
sinh ra, với gia đình và xã hội, theo mức độ chính đáng về các thứ giá
trị và hợp với trật tự khách quan về luân lý bất khả chấp đối với vấn đề
sử dụng việc ngừa thai, triệt sản và phá thai (x. "Populorum
progressio", no. 37; Gaudium et spes, nos. 50 and 87; Humanae vitae, no.
10; Familiaris consortio, nos. 30 and 46.).
a) Những sinh hoạt của các công quyền cũng như các tổ chức tư hết sức nỗ
lực để giới hạn quyền tự do của các đôi phối ngẫu trong việc quyết định
con cái của họ là trầm trọng vi phạm tới phẩm giá con người và công lý
(x. Familiaris consortio, no. 30.).
b) Nơi mối liên hệ quốc tế, việc viện trợ về kinh tế để phát triển các
dân tộc không được đặt điều kiện buộc phải chấp thuận những chương trình
ngừa thai, triệt sản hay phá thai (x. Familiaris consortio, no. 30).
c) Gia đình có quyền được xã hội trợ giúp trong việc sinh sản và dưỡng
nuôi con cái. Những cặp vợ chồng với gia đình đông con có quyền được trợ
giúp thích đáng mà không bị kỳ thị (x. Gaudium et spes, no. 50).
Khoản 4:
Cần phải tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ sự sống con người từ lúc mới được
thụ thai (x. Gaudium et spes, no. 51; Familiaris consortio, no. 26).
a) Phá thai là trực tiếp vi phạm tới quyền sống trọng yếu của con người
(x. Humanae vitae, no. 14; Sacred Congregation for the Doctrine of the
Faith, Declaration on Procured Abortion, November 18, 1974; Familiaris
consortio, no. 30).
b) Việc tôn trọng phẩm vị con người loại trừ tất cả mọi thứ mạo dụng về
thí nghiệm hay khai thác phôi bào con người (x. Pope John Paul II,
Address to the Pontifical Academy of Sciences, October 23, 1982) .
c) Tất cả mọi thứ can dự vào vấn đề di giống con người không nhắm tới
việc sửa lại những sự bất thường đều vi phạm tới quyền về nguyên tính
thể lý và nghịch lại với thiện ích của gia đình.
d) Trẻ em, cả trước và sau khi vào đời, đều có quyền được đặc biệt bảo
vệ và trợ giúp, như người mẹ của các em được như thế trong thời gian
mang thai và sau khi sinh nở một thời gian hợp tình hợp lý (x. Universal
Declaration, no. 25, 2; Convention on the Rights of the Child, Preamble
and no. 4).
e) Tất cả mọi trẻ em, dù được sinh ra trong hay ngoài hôn nhân, đều được
xã hội bảo vệ như nhau, vì việc phát triển toàn vẹn con người của các em
(x. Universal Declaration, no. 25, 2).
f) Xã hội cần phải đặc biệt bảo vệ những trẻ em mồ côi hay những em bị
thiếu hụt sự giúp đỡ của cha mẹ hay của người bảo trợ. Về vấn đề chăm
nuôi hay nhận nuôi, Quốc Gia cần phải ban hành luật trợ giúp các gia
đình xứng hợp trong vấn đề họ đón nhận vào nhà họ các trẻ em tạm cần hay
mãi cần đến việc chăm sóc. Luật lệ này đồng thời cũng cần phải tôn trọng
cả quyền hạn tự nhiên của cha mẹ các em nữa (x. Familiaris consortio,
no. 41).
g) Trẻ em bị tật nguyền có quyền được hưởng một môi trường sống thích
hợp với việc phát triển về nhân bản của các em tại gia đình và học đường
(x. Familiaris consortio, no. 77).
Khoản 5:
Vì ban sự sống cho con cái mình, cha mẹ có quyền đầu tiên, chính yếu và
bất khả nhượng trong việc giáo dục con cái; do đó cần phải nhìn nhận họ
là những nhà giáo dục trước hết và trên hết con cái của họ (x. Divini
Illius Magistri, nos. 27-34; Gravissimum educationis, no. 3; Familiaris
consortio, no. 36; Codex Iuris Canonici, nos. 793 and 1136).
a) Cha mẹ có quyền giáo dục con cái mình hợp với những xác tín về luân
lý và đạo giáo của họ, căn cứ vào truyền thống văn hóa về gia đình quan
tâm tới thiện ích và phẩm vị của đứa nhỏ; họ cũng cần phải được xã hội
trợ giúp để thi hành vai trò giáo dục của họ một cách thích đáng (x.
Familiaris consortio, no. 46).
b) Cha mẹ có quyền được tự do chọn trường học hay các phương tiện cần
thiết khác trong việc giáo dục con cái mình hợp với các niềm xác tín của
họ. Công quyền cần phải làm sao bảo đảm được việc phân phối công quĩ để
giúp cho thành phần làm cha mẹ thực sự có thể dễ dàng thi hành quyền này
mà không phải gánh vác những gánh nặng bất công. Cha mẹ không phải chịu,
trực tiếp hay gián tiếp, những trang trải ngoại lệ khiến họ có thể bị
chối bỏ hay bị hạn chế một cách bất công việc hành sử quyền tự do này
(x. Gravissimum educationis, no. 7; Dignitatis humanae, no. 5; Pope John
Paul II, Religious Freedom and the Helsinki Final Act [Letter to the
Heads of State of the nations which signed the Helsinki Final Act], 4b;
Familiaris consortio, no. 40; Codex Iuris Canonici, no. 797)
c) Cha mẹ có quyền được bảo đảm là con cái của họ không bị bắt buộc tham
dự các lớp học không hợp với những niềm xác tín về luân lý và đạo giáo
của họ. Đặc biệt vấn đề giáo dục tình dục là quyền căn bản của cha mẹ và
bao giờ cũng phải được thi hành dưới sự giám sát của họ, dù ở nhà hay ở
các trung tâm giáo dục được họ chọn và kiểm soát. (x. Dignitatis
humanae, no. 5; Familiaris consortio, nos. 37 and 40).
d) Cha mẹ bị vi phạm quyền lợi khi Quốc Gia áp đặt một thể chế giáo dục
cưỡng ép nhằm loại trừ tất cả mọi thứ dạy dỗ về đạo giáo (x. Dignitatis
humanae, no. 5; Familiaris consortio, no. 40).
e) Quyền hạn chính yếu của cha mẹ trong việc giáo dục con cái mình cần
phải được hỗ trợ bằng tất cả mọi hình thức hợp tác giữa cha mẹ, thày cô
và thầm quyền nhà trường, đặc biệt là bằng những hình thức tham gia mà
người công dân có quyền lên tiếng trong việc điều hành học đường cũng
như trong việc hình thành và áp dụng các qui chế giáo dục (x. Familiaris
consortio, no. 40; Codex Iuris Canonici, no. 796)
f) Gia đình có quyền đòi hỏi các phương tiện truyền thông xã hội phải
trở thành những phương tiện tích cực cho việc xây dựng xã hội, và củng
cố những giá trị trọng yếu của gia đình. Gia đình cũng có quyền được bảo
vệ cách thích đáng, nhất là đối với các phần tử trẻ trung nhất của họ,
cho khỏi bị những ảnh hưởng tiêu cực và việc lạm dụng của các phương
tiện truyền thông đại chúng (x. Pope Paul VI, Message for the Third
World Communications Day, 1969; Familiaris consortio, no. 76).
Khoản 6:
Gia đình có quyền hiện hữu và tiến bộ như là một gia đình (x. Familiaris
consortio, no. 46) .
a) Công quyền cần phải tôn trọng và bảo trì phẩm giá, quyền độc lập hợp
pháp, tính cách riêng tư, tính cách nguyên tuyền và sự bền vững của mọi
gia đình (x. Rerum novarum, no. 10; Familiaris consortio, no. 46;
International Covenant on Civil and Political Rights, no. 17).
b) Ly dị là điều tấn công chính cơ cấu hôn nhân và gia đình (x. Gaudium
et spes, nos. 48 and 50).
c) Cần phải tôn trọng và giúp đỡ chế độ gia đình bao gồm nhiều thế hệ
phần tử khác nhau nơi nào còn tồn tại để chế độ này có thể thi hành vai
trò đoàn kết và tương trợ theo truyền thống của mình, đồng thời cũng tôn
trọng quyền lợi của cả những gia đình chỉ có thế hệ cha mẹ con cái và
phẩm vị riêng của từng phần tử trong gia đình.
Khoản 7:
Hết mọi gia đình đều có quyền tự do sống đời tại gia dưới sự hướng dẫn
của cha mẹ, cũng như có quyền công khai tuyên xưng và truyền bá đức tin,
tham dự vào việc thờ phượng công cộng và tự do chọn lựa các chương trình
học hỏi về đạo giáo mà không bị kỳ thị (x. Dignitatis humanae, no. 5;
Religious Freedom and the Helsinki Final Act, 4b; International Covenant
on Civil and Political Rights, no. 18).
Khoản 8:
Gia đình có quyền thi hành phận sự về xã hội và chính trị của mình để
xây dựng xã hội (x. Familiaris consortio, nos. 44 and 48.).
a) Gia đình có quyền thành lập các hiệp hội với các gia đình và các tổ
chức khác, để làm trọn vai trò của gia đình một cách xứng hợp và hiệu
năng, cũng như để bảo vệ quyền lợi, duy trì sự thiện hảo và nói lên
những chủ trương của gia đình (x. Apostolicam actuositatem, no. 11;
Familiaris consortio, nos. 46 and 72).
b) Về các lãnh vực kinh tế, xã hội, pháp lý và văn hóa, cần phải nhìn
nhận vai trò chính đáng của các gia đình và các hiệp hội gia đình trong
việc phác họa và phát triển các chương trình liên quan tới đời sống gia
đình (x. Familiaris consortio, nos. 44 and 45).
Khoản 9:
Gia đình có quyền tin tưởng vào một qui chế thích đáng về gia đình của
công quyền nơi các lãnh vực pháp lý, kinh tế, xã hội và tài chính, không
có bất cứ một tí gì là kỳ thị trong đó (x. Laborem exercens, nos. 10 and
19; Familiaris consortio, no. 45; Universal Declaration, nos. 16, 3 and
22; International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, nos.
10, 1).
a) Gia đình có quyền hưởng những điều kiện về kinh tế bảo đảm cho họ có
được một mức sống thích đáng với phẩm vị và việc phát triển trọn vẹn của
họ. Không được ngăn cản họ chiếm đạt và bảo trì những sở hữu riêng tư là
những gì giúp cho gia đình họ được ổn định; những luật lệ liên quan tới
việc thừa hưởng hay chuyển đạt của cải cần phải tôn trọng nhu cầu và
quyền lợi của các phần tử của gia đình (x. Mater et magistra, Part II;
Laborem exercens, no. 10; Familiaris consortio, no. 45; Universal
Declaration, nos. 22 and 25; International Covenant on Economic, Social
and Cultural Rights, 7, a, ii).
b) Các gia đình có quyền hưởng những phương sách thuộc lãnh vực xã hội
chú trọng tới các nhu cầu của họ, nhất là trong trường hợp một trong hai
cha mẹ bị chết sớm, trường hợp một trong hai người phối ngẫu bị bỏ rơi,
bị tai nạn, hay bị bệnh nạn hoặc tàn phế, trong trường hợp bị thất
nghiệp, hay khi gia đình phải chịu thêm gánh nặng vì các phần tử của
mình cao tuổi, bị tật nguyền về tâm thần hay thể lý, hay vì vấn đề giáo
dục con cái (x. Familiaris consortio, nos. 45 and 46; Universal
Declaration, no. 25, 1; International Covenant on Economic, Social and
Cultural Rights, nos. 9, 10, 1 and 10, 2).
c) Người già có quyền được hưởng trong gia đình của mình, hay trong các
tổ chức thích hợp nếu trường hợp trước bất khả, một môi trường giúp họ
có thể sống những năm cuối đời một cách thanh thản trong khi thực hiện
những sinh hoạt hợp với tuổi tác của họ và giúp họ có thể tham phần vào
đời sống xã hội (x. Gaudium et spes, no. 52; Familiaris consortio, no.
27).
d) Cần phải quan tâm tới quyền lợi và nhu cầu của gia đình , nhất là tới
giá trị của mối hiệp nhất gia đình, nơi luật lệ và qui chế liên quan đến
vấn đề trừng phạt, để làm sao người bị giam giữ vẫn còn liên lạc với gia
đình của mình và gia đình được nâng đỡ một cách thích đáng trong thời
gian xẩy ra việc giam cầm này (x. ).
Khoản 10:
Gia đình có quyền được hưởng trật tự về xã hội và kinh tế biết thực hiện
việc lo cho có công ăn việc làm hầu giúp cho các phần tử của gia đình có
thể sống với nhau, và không làm ngăn trở mối hiệp nhất, niềm phúc hạnh,
sức khỏe và sự bền vững của gia đình, cùng với cơ hội giải trí lành mạnh
(x. Laborem exercens, no. 19; Familiaris consortio, no. 77; Universal
Declaration, no. 23, 3).
a) Cần phải trả thù lao đầy đủ cho công ăn việc làm để xây dựng và bảo
trì gia đình cách xứng đáng, bằng việc trả lương xứng hợp, được gọi là
“lương lậu gia đình”, hay bằng những biện pháp khác như những trợ cấp
gia đình, hoặc trả thù lao cho công việc làm ở nhà của một trong hai cha
mẹ; không được ép buộc người mẹ phải làm việc ở ngoài nhà đến gây thiệt
hại cho đời sống gia đình, nhất là cho việc giáo dục con cái (x. Laborem
exercens, no. 19; Familiaris consortio, nos. 23 and 81).
b) Cần phải nhìn nhận và tôn trọng công việc của người mẹ ở nhà vì giá
trị của nó đối với gia đình cũng như với xã hội (x. Familiaris
consortio, no. 23).
Khoản 11:
Gia đình được quyền có một gia cư đàng hoàng, hợp với đời sống gia đình
và đủ chỗ cho số người trong gia đình, với một môi trường về thể lý có
những dịch vụ căn bản cho đời sống của gia đình cũng như của cộng đồng
(x. Apostolicam actuositatem, no. 8; Familiaris consortio, no. 81;
International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, nos. 11,
1).
Khoản 12:
Gia đình của thành phần di dân có quyền được bảo vệ giống như các gia
đình khác (x. Familiaris consortio, no. 77; European Social Charter,
19).
a) Gia đình của thành phần di dân có quyền được hưởng sự tôn trọng đối
với văn hóa của họ và nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ đối việc họ hội nhập
vào cộng đồng họ góp phần.
b) Những người lao động di dân có quyền được đoàn tụ với gia đình của họ
sớm bao nhiêu có thể.
c) Những người tị nạn có quyền hưởng trợ giúp của công quyền và các Tổ
Chức Quốc Tế trong việc dễ dàng hóa việc đoàn tụ gia đình của họ.
chuyển dịch từ
http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/family
/documents/rc_pc_family_doc_19831022_family-rights_en.html |