Dân trước đây
không phải dân của Ta, Ta sẽ gọi là Dân của Ta; người chẳng được yêu, Ta
sẽ gọi là Người Yêu (Rm 9:25).
Tôi tin Chúa vì người Do Thái làm tôi… sợ!
Cách giải thích theo vô thần về niềm tin
tôn giáo, đó là sự hoàn tất ước muốn thuộc về vũ trụ và là thuốc phiện
đối với dân chúng, không thể được áp dụng cho chữ יאַרמלקע (những người
bấp bênh). Họ không theo mệnh lệnh của Thiên Chúa dù họ được hứa ban
hạnh phúc vĩnh hằng khi làm như vậy. Họ không sống đời sống tôn giáo dù
họ được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng sau khi qua đời. Thật vậy, những người
Do Thái thời sơ khai không tin có Thiên đàng (Heaven). Họ tin vào Âm phủ
(Sheol), đó là “một nơi tối tăm mà mọi người chết đều tới, cả người công
chính và bất chính, dù họ đã sống theo cách chọn lựa luân lý nào, một
nơi tĩnh mịch và tối tăm xa cách Thiên Chúa”.
Nếu điều này có vẻ chỉ là “chuyện nhỏ” (mere trifle),
hãy để tôi thăm dò các ngụ ý của yếu tố này: Người Do Thái đồng ý bỏ các
thú vui về sự gian dâm, say rượu, lừa đảo, lười biếng, tôn sùng ngẫu
tượng, và mọi thứ khác, để dành thời gian cầu nguyện, ăn chay, và tuyệt
đối vâng lời các tư tế, hoàn toàn không có phần thưởng đời đời. Nếu bạn
đã từng mạo hiểm đi vào sâu trong sách Đệ nhị luật (Deuteronomy), có
danh sách dài dằng dặc các luật lệ “chi tiết” theo kiểu “bới lông tìm
vết”, thì bạn biết điều này kỳ diệu như thế nào. Người Do Thái đại diện
cho sự hăng hái về việc mâu thuẫn với tư tưởng cho rằng tôn giáo được
lập ra để làm cho chúng ta cảm thấy tốt, cho phép chúng ta quên đi mọi
nỗi lo sợ và các bi kịch bằng cách nhìn vào hạnh phúc vĩnh viễn.
Vì thế, nhờ chịu cắt bì, nghi ngờ đầu tiên của tôi cho rằng niềm tin tôn
giáo là sự hoàn tất ước muốn đã giảm bớt. Nhưng dù người Do Thái không
tin họ được thưởng công trên Thiên đàng, chắc chắn họ vẫn tin rằng Thiên
Chúa ở với họ, giúp đỡ họ, và đấu tranh cho họ trên thế gian này. Có
chắc chắn tôn giáo của họ vẫn là một dạng hoàn tất ước muốn?
Câu trả lời của tôi là “có”. Và đó là phần khiến tôi sợ đối với người Do
Thái. Mối quan hệ của họ với Thiên Chúa không dựa trên những thứ trừu
tượng, mà dựa trên một hiệp ước (pact) – một hiệp ước hiển nhiên, hữu
hình và trần tục. Giao ước đã được chính Thiên Chúa đưa ra: “Các
ngươi là Dân của Ta và Ta là Thiên Chúa của các ngươi”. Ngài giúp Do
Thái và thực hành kế hoạch cứu độ qua họ, và họ sẽ trung tín với Ngài.
Là một người hiện đại, tôi không muốn điều này. Tôi muốn biết rằng mối
quan hệ giữa Thiên Chúa với tôi comes in the abstract form of tình yêu
và hòa bình. Thiên Chúa là Đấng hoạt động trên mức độ của linh hồn tôi –
và như vậy Ngài vẫn không thể tranh luận đối với người vô thần. Bạn có
thể hỏi điều gì hoạt động trong linh hồn tôi ư?
Nhưng người Do Thái không có cách chia Thiên Chúa của
họ thành từng ngăn đối với những vấn đề tâm linh. Thiên Chúa là Thiên
Chúa, là Đấng đã phân rẽ nước Hồng Hải (Biển Đỏ) cho họ đi qua, là Đấng
đã chiến thắng những trận đánh, là Đấng đã đến như cột lửa và cột mây,
là Đấng đã nói với Môsê trong bụi cây bốc cháy và là Đấng đã nuôi sống
họ bằng manna từ trời. Tóm lại, thỏa hiệp của họ với Thiên Chúa hoàn
toàn có thể minh chứng, tự biểu lộ bởi tác động riêng của Lòng Chúa
Thương Xót trong đời sống của Dân Ngài. Thiên Chúa hứa với họ rằng Ngài
sẽ giúp họ sống sót thành một quốc gia, và dân Do Thái – dù nhỏ yếu và
bị ghen ghét – họ vẫn hợp quần thành mọt quốc gia.
Điều này có chứng tỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa? Tất cả những sự tương
tác đó có thể đã được tạo nên, có thể người Do Thái chỉ sống sót do ngẫu
nhiên, và người Do Thái ngồi ghế quan tòa ở TP New York ngày nay có thể
cũng chỉ là sự ngẫu nhiên của lịch sử. Nhưng thế là lãng phí khi cho
rằng việc tin vào Thiên Chúa có nguồn gốc từ những giả thuyết không thể
chứng minh (untestable hypotheses). Người Hy Lạp cổ đại có thể nói rằng
thần Helios kéo mặt trời ngang qua bầu trời bằng chiếc xe ngựa, và không
ai có thể tranh cãi. Tranh luận về các tôn giáo cổ đều giống nhau, và
thậm chí cả một số tôn giáo hiện đại, như khi người Kitô giáo nói:
“Tôi biết Thiên Chúa hiện hữu vì tôi cảm thấy sự hiện hữu của Ngài”.
Nhưng người Do Thái cho rằng vào một ngày chính xác, tại một nơi chính
xác (chúng ta hiểu là hiện hữu), khi người nào đó là người cai trị
(người mà chúng ta biết đã sống và đã thực sự cai trị), Thiên Chúa đã
làm ra 10 đại dịch trên người Ai Cập, và người Do Thái được tự do. Sự
hiện hữu của Thiên Chúa ở trên hiệp ước hiển nhiên giữa họ, Ngài hứa
Ngài sẽ đấu tranh cho họ. Đó có phải là sự hoàn tất ước muốn? Đúng,
nhưng theo nghĩa xấu thì ước muốn của họ hiển nhiên được mãn nguyện.
Như vậy chúng ta sợ vì những tuyên bố của họ, để quyết định làm gì đó
với người Do Thái. Như Walker Percy nói: “Người Do Thái vừa là dấu
hiệu vừa là chướng ngại vật. Đó là lý do mà họ bị ghét bởi những người
lý luận như Hitler (chủ nghĩa Phát-xít hoặc chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc) và Stalin (chủ nghĩa Phát-xít hoặc chủ nghĩa cộng sản). Người Do
Thái không thể bị tản mác”.
Họ đang sống, đang hít thở để chứng tỏ rằng niềm tin vào Thiên Chúa
không bắt nguồn từ lời hứa của phần thưởng đời đời, rằng không có gì
giống thuốc phiện, và niềm tin của họ được tiếp tục là hợp lý
(validated), không bởi trừu tượng mà bởi các sự kiện cụ thể, đã được ghi
chép trong lịch sử. Ý nghĩ cho rằng các sự kiện này (phân rẽ nước Biển
Đỏ, tách nước khỏi đá,…) không thể xảy ra thì chỉ là ngớ ngẩn. Bất kỳ ai
nói điều đó sắp bị quở phạt, vì sự đồng ý của họ – nếu người đó là khoa
học gia giỏi – cũng sẽ kết luận thế này: “Theo kinh nghiệm bình
thường của con người, sự kiện khác thường của Tiếng Nói phát ra từ bụi
cây bốc cháy là không thể”. Không, đó là điều chắc chắn nhất có thể
xảy ra. Khi tôi nhìn vào khuôn mặt của một người Do Thái, cách họ sống
và tôn thờ Chúa ngày nay, tôi tin họ như vậy.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này! Tôi muốn dành một phút và xin lỗi về 2
bài viết trước của tôi trên blog đã không mấy tế nhị. Mea culpa, mea
culpa! Tôi xin nhận lỗi mình, và tôi hứa làm tốt hơn. |