Nhìn lại lịch sử tồn tại của đời sống Đan Tu Chiêm
Niệm, người ta không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy Ơn Gọi Thánh Hiến này
từ khởi đầu cho tới ngày hôm nay không ngừng phải đối mặt với những phê
bình, bài bác và thóa mạ từ nhiều phía.
Martin Luther, cha đẻ của hệ phái Tin Lành Lutheraner ở Đức, đã gay gắt
kết án đời sống Đan Tu Chiêm Niệm trong Giáo Hội Công Giáo là một lối
sống “phản Kitô giáo tai hại, vô đạo, nặc mùi Do-thái, nặc mùi ngoại
giáo”, vì ông cho rằng đời sống Đan Tu Chiêm Niệm cậy dựa vào công sức
và việc làm của riêng mình(1), chứ không hoàn toàn tin tưởng phó thác
vào một mình ân sủng Thiên Chúa và công trình cứu chuộc của Đức Kitô.
Tiếp đến là tầng lớp “trí thức“ ở Âu châu trong một giai đoạn thường
được mệnh danh là “thế kỷ ánh sáng“ (le sièchle de la lumière) hay cũng
được gọi là “thế kỷ triết học“ vào các thế kỷ XVII và XVIII, đã bài bác
và thóa mạ một cách cực đoan vô lý đời sống các Đan Sĩ trong các Đan
Viện thuộc các Dòng Tu Chiêm Niệm, như Dòng Biển Đức, Dòng Xitô, Dòng
Cát-Minh, v.v… Họ cho đời sống các Đan Sĩ Chiêm Niệm – chuyên lo phụng
sự Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn bằng các kinh nguyện và qua nỗ lực
hoàn thiện đời sống cá nhân mỗi ngày – không những vô dụng mà còn phản
tiến bộ, và như thế là một mất mát to lớn cho phúc lợi chung của xã hội.
Thái độ phê bình và bài bác đời sống Đan Tu Chiêm Niệm của tầng lớp tự
nhận mình là trí thức này có thể được coi là câu dạo đầu mở màn cho
những cuộc bắt bớ các Đan Sĩ Chiêm Niệm, tàn phá hay tục hóa các Đan
Viện của họ một cách tàn bạo và bất công do cuộc cách mạng Pháp nói
chung và do bạo chúa Nã-phá-luân(2) nói riêng gây ra tại nước Pháp cũng
như tại nhiều nước Âu châu khác vào cuối thế kỷ XVIII.
Và sau cùng, kể cả một thiểu số các tín hữu Công Giáo, gồm có giáo dân
và giáo sĩ, cũng phê bình đời sống Đan Tu Chiêm Niệm là dư thừa và thiếu
hiệu quả, xa lạ với xã hội và dửng dưng trước công cuộc truyền giáo. Họ
cho rằng sứ mệnh truyền bá Tin Mừng, sứ mệnh mở mang Nước Chúa và cứu
rỗi các linh hồn chỉ bằng lời cầu nguyện suông là hoàn toàn không đủ,
nhưng còn cần phải bằng các hoạt động Tông Đồ cụ thể.
Tất cả những thái độ và những phê phán trên đây là cả một sự ngộ nhận
tai hại, một sự nhận định hoàn toàn chủ quan, một chiều và lệch lạc về
đời sống Đan Tu Chiêm Niệm. Đó cũng là một dấu chỉ cho thấy những người
phê bình, bài bác hay đánh giá thấp Ơn Gọi Thánh Hiến này là chưa hiểu
được mọi giá trị và vai trò thánh thiêng của kinh nguyện Kitô Giáo trong
cuộc sống con người.
Chính Đức Giêsu đã dạy:
• “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi
điều sắp xảy đến (các biến cố khủng khiếp xảy ra trong ngày thế mạt) và
đứng vững được trước mặt Con Người“ (Lc 21,36).
• “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, kẻo phải sa vào cơn cám dỗ. Vì
tinh thần thì hăng say, còn thể xác lại yếu hèn“ (Mt 26,41). “Simon,
Simon, Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy
đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin“ (Lc 22,31).
• Và thánh tông đồ Phêrô cũng đã nhắn nhủ các tín hữu: “Anh em hãy sống
tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. (1Pr 5,8).
Trong Sắc Lệnh về việc “Canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu Perfectae
Caritatis (PC)“ thánh Công Đồng Chung Vatican II đã minh nhiên khẳng
định:
“Trong những Hội Dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các Tu Sĩ chỉ nhất
tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc
chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động
tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những Hội Dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị
cao quí trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc
tụng tuyệt hảo, làm vẻ vang dân Thiên Chúa bằng những hoa trái Thánh
thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho dân ấy thêm lớn mạnh
bằng việc tông đồ tuy âm thầm nhưng phong phú. Họ là vinh dự và là nguồn
mạch tuôn trào các ơn thiêng.“ (3)
Trong văn kiện “Chiều kích chiêm niệm của đời sống Tu Trì“ (The
Contemplative Dimension of Religious Life), công bố năm 1980, Thánh Bộ
Tu Sĩ đã minh định rằng đời sống cầu nguyện và chiêm niệm nội tâm là căn
bản của đời tận hiến. Theo truyền thống cũ xưa kia, đời sống Đan Tu
Chiêm Niệm thường được quan niệm là một lối sống chỉ dành riêng cho
những người tín hữu ưu tú đặc biệt trong Giáo Hội. Người ta cũng thường
trình bày và so sánh đời sống của các Tu Sĩ thuộc các Dòng Chiêm Niệm và
các Dòng Hoạt Động như hai lối sống Thánh Hiến hoàn toàn biệt lập, không
có gì tương quan với nhau, nếu không muốn nói là đối kháng với nhau. Một
thái độ và quan niệm như thế có thể làm cho người ta có cảm tưởng là hai
lối sống đời Thánh Hiến ấy đã được “phân công“ rõ rệt: Các Tu Sĩ thuộc
các Dòng Hoạt Động như thể những chiến sĩ chiến đấu ngoài tiền tuyến,
còn các Đan Sĩ thuộc các Dòng Chiêm Niệm là những nhân công phụ trách
sản xuất lương thực ở hậu phương. Nhưng nay với văn kiện này, Giáo Hội
muốn sửa lại quan niệm lệch lạc ấy và đồng thời nhắc nhở tất cả mọi Tu
Sĩ thuộc các Dòng Tu, Hoạt Động cũng như Chiêm Niệm, đều phải nỗ lực
sống Đời Cầu Nguyện Chiêm Niệm mỗi ngày. Văn kiện mô tả sự chiêm niệm
như là một sự nỗ lực nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Đó là tâm tình
thờ lạy một cách khiêm tốn và liên lỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong
mọi người, trong các biến cố của cuộc sống và trong các sự vật.
Đời sống Chiêm Niệm chính là đời sống của ba nhân đức đối thần – tin,
cậy, mến. Cũng chính trong đời sống chiêm Niệm Thiên Chúa thông ban mình
cho con người bằng việc thông hiệp với Chúa Cha nhờ Đức Kitô trong Chúa
Thánh Linh.(4) Nhất là trong phần III của văn kiện, Giáo Hội đã đề cao
và đánh giá đặc biệt Ơn Gọi Chiêm Niệm.(5) Bởi vì, những hoạt động Tông
Đồ bên ngoài mà thiếu tâm hồn cầu nguyện và chiêm niệm bên trong của nhà
truyền giáo, thì cũng giống như một cái xác không hồn, như một bức tượng
không có sức sống bên trong. Điều đó muốn nói rằng một Tu Sĩ hoạt động
tông đồ truyền giáo nhất thiết phải có tinh thần cầu nguyện chiêm niệm
và một Đan Sĩ chiêm niệm nhất thiết phải có tinh thần truyền giáo sống
động. Đời sống cầu nguyện chiêm niệm và công cuộc truyền giáo luôn liên
kết khăng khít với nhau như thể một thực tại duy nhất được biểu lộ ra
bên ngoài bằng hai hình thức khác nhau.
Các Đức Thánh Cha nói chung và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói
riêng, luôn đề cao các giá trị và vai trò quan trọng bất khả thay thế
của Ơn Gọi Đan Tu. Trong Tông Huấn của ngài về “Đời sống Thánh Hiến –
Vita Consecrata (VC)“, công bố ngày 25.3.1996, thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã nhận định đời sống Đan Tu Chiêm Niệm là một vinh dự và là
nguồn ơn tuôn đổ trên đời sống Giáo Hội, ngài viết: “Các Hội Dòng hoàn
toàn chuyên lo chiêm niệm, là một niềm vinh dự và là nguồn mạch muôn vàn
ơn thiêng cho Giáo Hội. Bằng chính đời sống và sứ mệnh của mình, những
thành viên của các Hội Dòng này, noi gương Chúa Kitô cầu nguyện trên núi;
các vị chứng tỏ quyền tối thượng của Thiên Chúa trên dòng lịch sử và
tham dự trước vinh quang mai hậu. Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc
lắng nghe Lời Chúa, phụng thờ Thiên Chúa, khổ chế bản thân, đọc kinh cầu
nguyện, hãm mình và chia sẻ tình huynh đệ, các vị quy hướng trọn vẹn đời
sống và mọi sinh hoạt của mình về sự chiêm ngắm Thiên Chúa. Như vậy, các
vị cống hiến cho Giáo Hội chứng tá duy nhất về tình yêu mà Giáo Hội dành
cho Thiên Chúa, cũng như góp phần vào việc làm tăng trưởng Dân Chúa,
bằng một việc tông đồ âm thầm nhưng phong phú.“(6)
Và trong Tông Thư “Hồng Ân Cứu Độ - Redemptionis Donum“ của ngài, thánh
Giáo Hoàng còn đào sâu chiều kích thần bí của Ơn Gọi Thánh Hiến như là
đời sống mới, đời sống Giao Ước. Bởi vậy, chính thánh nữ Têrêxa Avila đã
từng xác tín rằng sự cầu nguyện chiêm niệm là cấp độ cao nhất của con
đường trọn lành nên thánh.
Tất cả những giáo huấn công khai và chính thức trên đây của Giáo Hội đã
minh định cho ta thấy rằng Ơn Gọi Đan Tu Chiêm Niệm tự bản chất là một
điều cần thiết cho đời sống Giáo Hội và cho công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo
Hội luôn biết ơn và quý trọng đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu Nguyện
như một kho tàng vô giá, dĩ nhiên không vì nguồn gốc lịch sử lâu đời của
nó trong truyền thống Giáo Hội, mà vì những giá trị thần bí linh thiêng
và cao cả của nó. Đó là một lối sống Thánh Hiến biểu hiệu cho Nước Trời,
biểu hiệu cho cuộc sống của các Thần Thánh trên Nước Trời, vì cũng như
các Thần Thánh hằng phủ phục tôn thờ trước tòa Chúa trên Nước Trời, các
Đan Sĩ Chiêm Niệm ngày đêm không ngừng dâng lên trước thánh nhan Thiên
Chúa muôn điệu ca du dương thánh thót khi cử hành các Giờ Kinh Thần Tụng,
hầu để ca ngợi và tạ ơn, với một cuộc sống trong an bình, thanh thoát,
Thánh thiện và xa lánh mọi bon chen vật lộn của cuộc sống thế tục. Và
trong quá trình nỗ lực nên trọn lành nên thánh mọi ngày của mình như thế,
người Đan Sĩ đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa, tiếp cận với Người qua
kinh nguyện, và nhờ thế người Đan Sĩ chuyển cầu lên trước tòa Chúa mọi
nguyện ước chân chính và khẩn thiết của Giáo Hội, của xã hội và của mọi
anh chị em đồng loại của mình.
Nhưng như đã đề cập tới ở trên, đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu Nguyện
đưa dẫn người Đan Sĩ tiếp cận với Thiên Chúa, với Đấng Tối Cao, với Đấng
Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ. Điều đó đòi hỏi người Đan Sĩ phải luôn
nỗ lực trở nên hoàn thiện mỗi ngày, để xứng đáng được diện kiến trước
thánh nhan Thiên Chúa, như lời Thánh Vịnh dạy: “Đây là cửa dẫn vào nơi
Chúa ngự, chỉ những người công chính mới được qua.“(Tv 118,20).
Trong quá trình hoàn thiện bản thân của người Đan Sĩ, điều tiên quyết
đòi hỏi người Đan Sĩ phải thực hiện là lột bỏ con người cũ đầy khiếm
khuyết và bất toàn của mình, là tránh xa mọi tội lỗi và mọi thói hư tật
xấu, vì chính Đức Khổng Tử, một người không phải là Kitô hữu, cũng đã
khẳng định: “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo giã: phạm tội với Trời thì còn
cầu nguyện vào đâu được nữa“(7); tiếp đến là thực thi các lời khuyên
Phúc Âm, giữ trọn Tu Luật và Nội Quy của Dòng, v.v… Nhưng trên hết phải
sống trọn đức ái đối với hết mọi người, vì đức ái là luật tối thượng của
đường trọn lành, là dây ràng buộc mọi nhân đức. (x. Cl 3,14). Thánh
Augustinô đã từng xác tín: “Đức ái là nhân đức liên kết chúng ta với
Thiên Chúa.” Cùng một tâm tình đó, thánh Justinô Tử Đạo nói: “Ôi! Mạnh
mẽ biết bao mối dây liên kết với Thiên Chúa.” Vâng, đức ái là mối dây
liên kết Thiên Chúa với linh hồn chúng ta qua Chúa Thánh Thần, Đấng là
nguồn sống thánh hóa của ta.
Vậy, đời sống Đan Tu Chiêm Niệm và Cầu nguyện là nguồn động lực làm nảy
sinh một sự tác động lưỡng diện: một đàng, để sống bền đỗ và sống hạnh
phúc Đời Đan Tu của mình, người Đan Sĩ phải nỗ lực hoàn thiện chính bản
thân mình mỗi ngày một cách tự nguyện và đầy ý thức; một đàng khác,
chính đời sống Đan Tu Cầu Nguyện là động lực thu hút, thúc đẩy và thánh
hóa người Đan Sĩ mỗi ngày một thêm thánh thiện và trọn lành hơn.
Sau cùng, như vừa nói ở trên, người Đan Sĩ không sống Ơn Gọi Chiêm Niệm
và Cầu Nguyện cho một mình mình, hay nói cách khác, người Đan Sĩ không
đến với Chúa một mình, nhưng với mọi anh chị em đồng loại của mình. Lời
cầu nguyện của người Đan Sĩ luôn luôn phải trải rộng và bao trùm mọi nhu
cầu, mọi ước vọng và mọi niềm vui nỗi buồn của anh chị em đồng loại của
mình. Vâng, đời sống Đan Tu của các Đan Sĩ chiêm niệm luôn phải là
“nguồn mạch tuôn trào mọi ơn thiêng“ như Công Đồng dạy.(8). Đó chính là
sứ mệnh Ngôn Sứ của Ơn Gọi Đan Tu Chiêm Niệm vậy.
|