Cảm thông
(Chúa nhật II TN, năm C)

Trầm Thiên Thu

Cảm thông là điều rất cần thiết trong cuộc sống. Cảm thông liên quan lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Đó là biết quan tâm, yêu thương và chia sẻ với người khác. Chúa Giêsu đã cảm thông nên mới “chạnh lòng thương” những con người khốn khổ mà Ngài gặp ở bất cứ nơi nào (x. Mt 9:36; Mt 14:14; Mt 15:32; Mt 18:27; Mt 20:34; Mc 1:41; Mc 9:22; Lc 7:13), và Ngài cũng dạy chúng ta phải như người Samari mà biết xót thương tha nhân (x. Lc 10:29-37).

Như vậy, biết cảm thông là một nhân đức, vì cảm thông có liên đới với các nhân đức và các đức tính khác. Người biết cảm thông tha nhân là người của Thiên Chúa, vì người đó noi gương Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (x. Is 49:10; Is 54:10), là Đấng từ bi và nhân hậu (x. 2 Sbn 30:9; Tv 103:1 & 8; Tv 111:4; Tv 145:8; Gc 5:11).

TẠI SAO CẦN CẢM THÔNG ?

Ngôn sứ Isaia bộc bạch: “Vì lòng mến Sion, tôi sẽ không nín lặng, vì lòng mến Giêrusalem, tôi nghỉ yên sao đành, tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62:1). Rồi ông cho biết rằng “muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi bằng tên mới là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62:2).

Thật là hạnh phúc vì được chính Thiên Chúa cảm thông mà thương xót, đồng thời còn được là “ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa cầm ở tay” (Is 62:3). Vì thế, chẳng ai còn dám tru tréo là “đồ bị ruồng bỏ!”, ngay cả xứ sở cũng không còn bị tiếng là “phận bạc duyên đơn”. Nhưng lại được ưu ái gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi! Xứ sở ngươi nức tiếng là duyên thắm chỉ hồng” (Is 62:4). Tại sao? Vì người đó được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở người đó. Kinh thánh ví “như tài trai sánh duyên cùng thục nữ” khi Đấng tác tạo sẽ cưới người đó về, và “như cô dâu là niềm vui cho chú rể”, người đó cũng là niềm vui cho Thiên Chúa (Is 62:5).

Chắc hẳn chẳng còn niềm vui nào lớn lao hơn và tột đỉnh như vậy. Vậy thì im lặng sao được, thế nên phải “hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).

Chúc tụng và tôn vinh như vậy cũng chưa đủ, vì lời nói phải đi đôi với việc làm. Tác giả Thánh vịnh kêu gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước, dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan” (Tv 96:7-9). Tiếp theo là phải loan truyền cho người khác cùng hưởng niềm vui có Chúa: “Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:10).

Làm gì cũng phải nhờ ơn Chúa, như Đức Kitô đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Nhưng có nhiều loại ơn, và mỗi người được nhận theo khả năng của mình: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7). Vấn đề là “vì ích chung”. Vì thế, khi chúng ta được ơn này mà người kia không có thì đừng cho là mình “ngon”, được ơn gì đó là để phục vụ chứ không phải để hãnh diện mà kiêu căng, trách nhiệm tăng theo số ơn nhận được. Ngược lại, nếu mình không được ơn mà người khác được thì đừng ghen tỵ mà đố kỵ. Phải rất tỉnh táo để mà khiêm nhường và cảm thông.

Thánh Phaolô phân tích rạch ròi: “Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1 Cr 12:8-10). Tất cả đồng quy một mối: “Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr 12:11).

Thế thì chẳng ai có thể vênh vang tự đắc hoặc biện hộ cho mình bằng bất kỳ lý do gì. Người nào cũng có bổn phận riêng theo ơn mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Mười nén, năm nén hay một nén không là để kèn cựa nhau, mà là để nâng đỡ nhau, cảm thông nhau, và xót thương nhau theo gương Đại Sư Giêsu.

CẢM THÔNG ĐỂ LÀM GÌ ?

Chắc chắn cảm thông là để phục vụ: Phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân. Khi dạy về bài học phục vụ, chính Chúa Giêsu xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụhiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Phục vụ là phải “chịu thiệt”, vậy mới khó, chứ ai cũng có thể “chỉ tay năm ngón” – người tài thì điều khiển khéo léo, người kém tài thì điều khiển vụng về, nhưng người ta vẫn có thể ra lệnh và “sai bảo”.

Một lần nọ, Đức Giêsu và Thân mẫu được mời dự tiệc cưới tại Cana, miền Galilê, các môn đệ cũng được mời. Tiệc đang “nóng”, khách đang “hưng phấn” thì rượu bia không còn. Đi mua thì không kịp, vì thời đó phải đi bộ xa lắm phương tiện liên lạc không dễ. Như ngày nay, người ta chỉ cần phóng xe đi trong vòng vài phút hoặc “nhấn nút alô” là xong ngay, khỏi cần tính toán nhiều cho nhức đầu.

Khi thấy họ thiếu rượu, Đức Mẹ đã cảm thông gia chủ và thấy thương họ, nên rỉ tai Con Trai: “Họ hết rượu rồi, con ơi!” (Ga 2:3). Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến mẹ con mình? Giờ của con chưa đến” (Ga 2:4). Tuy vậy, Đức Mẹ vẫn đi nói với gia nhân: “Con Trai tôi bảo gì thì các anh cứ việc làm theo nhé!” (Ga 2:5). Con nói gì thì nói, Mẹ cứ bảo người ta theo ý Mẹ. Điều đó chứng tỏ Mẹ Con rất thông cảm và hiểu nhau, luôn “ăn ý” với nhau, đồng thời cũng chứng tỏ đức tin của mẹ quá mạnh mẽ và vững vàng.

Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng 80 hoặc 120 lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” (Ga 2:7). Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (Ga 2:8). Họ liền đem cho ông mà cũng không thắc mắc gì hết.

Khi người quản tiệc nếm thử thì thấy là rượu. Các chum đổ đầy nước mà giờ hoá thành rượu. Lạ thật! Không ai biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết. Mà không phải rượu thường, đó lại là thứ rượu hảo hạng, vừa ngon và vừa mạnh “đô” lắm. Ôi chao, cứ đổ đồng mỗi chum là 100 lít, vị chi là 600 lít. Lượng rượu này có nước mà vừa bán vừa cho chứ uống gì hết! Ông quản tiệc “đau cái điền”, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi. Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Ga 2:10). Chú rể cũng lắc đầu, bó tay, nhưng hẳn là anh chàng này khoái chí và hạnh phúc lắm.

Thánh Gioan cho biết rằng đây là dấu lạ đầu tiên mà Đức Giêsu đã làm để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Các môn đệ quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhờ vậy mà các đệ tử đã tin vào Đại Sư của mình.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những con người khốn khổ nhất, để chúng con xứng đáng được Ngài xót thương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

Trang Độc Giả

Trang Nhà