
Chân phước Mẹ Têrêsa
Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo
khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai
cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực
đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao
khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.
Cha mẹ
của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje),
thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng
cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7
tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là
thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo
(Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan
tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len,
một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà
tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa
(chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến
năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái,
Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải
Bharat Ratna (भारत
रत्न,
nghĩa là “Viên ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người
dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma
Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn
như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.
Trong
thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít
người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở
Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa
không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở
các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với
người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân
thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.
Hình
ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn)
xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm
nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người
kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào
choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta,
bà “quên” mình là người Albani để
hòa nhập
và hoàn toàn
nên giống các phụ nữ Ấn.
Chính
phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền
giáo.
Đầu
thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định
của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà
đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần,
Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ
không phá thai
và bảo vệ sự
sống.
Dự định của Mẹ Têrêsa là
chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối,
những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không
mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của
họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh
về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và
sự chết là được giải thoát khỏi maya.
Mẹ
Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do
chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi
bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không
ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh
mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.
Từ
năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt
động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt
vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something
Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.
Bà
không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc
người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính
các nữ tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.
Dân
Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên
1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt
động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau,
Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.
Số
phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói
đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội
Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải
phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không
suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi
ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái
tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.
Mẹ
Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là
bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của
chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao
giờ, dù chỉ một”.
Năm
1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê
chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam.
Vì
tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục
vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa
được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.
Lạy Chân phước Têrêsa, xin
ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi
người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người
bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa
cứu độ của chúng con. Amen.
|