Thánh Tử Đạo Việt Nam LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG nguồn : giaoxuvnparis.org Tác giả Phạm Bá Nha (Phó tế) | |
Trong Tông Thư Đệ Tam Thiên Niên Kỷ Sắp Đến, ban hành ngày 10-11-1994, Đức cố GH Gioan Phaolo II đã viết : Giáo Hội của đê nhất thiên niên đã khai sinh trong máu đào của các vị Tử Đạo (Sanguis Martyrum semen Christianorum)... Chứng tá vê Chúa Kitô đến đổ máu mình trở thành gia sản chung cho người Công Giáo. Đó là chứng tá không nên quên lãng... Trong thế kỷ chúng ta đang sống, các vị Tử Đạo xuất hiện lại : thường là những kẻ âm thầm, Họ như những "chiến sĩ vô danh" cho đại nghĩa của Chúa. Bằng mọi cách có thể, đừng để mất đi chứng tá của họ trong Giáo Hội... Lời chúc tụng lớn lao hơn cả mà GH dâng lên Chúa Kitô trước ngày của đệ tam thiên niên sẽ là việc chứng tá sự hiên diện đầy quyên năng của Đấng Cứu Độ qua những hoa trái đầu tiên, đức trông cậy và đức bác ái nơi những người nam nữ, thuộc nhiểu ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau, đã theo Chúa Kitô trong nhiều hình thức ơn gọi làm Kitô hữu khác nhau. (số 37) Từ tư tưởng trên, chúng ta có thể đưa vào lịch sử Giáo Hội VN : hơn 300 năm cấm đạo, VN đã có hơn 130.000 anh hùng Tử Đạo. Giáo Hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc Hiển Thánh và một vị lên bậc Chân Phước. Nhờ máu đào các Thánh Tiền Nhân, mà qua bao nhiêu năm qua, Giáo Hội VN vẫn kiên cường, phát triển, và vẫn có những vị Tử Đạo Mới. Chúng ta, cần noi theo gương các Thánh Tử Đạo Tiên Tổ để làm chứng cho Tin Mừng. Đó là chủ đích của phần bài tổng luận này. Trước hết mở lại trang sử cũ, ôn lại đôi lời di chúc của các Thánh Tử Đạo Cha Ông. Sau đó dựa theo phương án của Đức Cha Têphanô Théodore Thể, xem chúng ta có thể làm gì để làm chứng cho Tin Mừng. I. DI CHÚC CỦA CÁC THÁNH TIỀN NHÂN Các Thánh VN không những chỉ có lòng quả cảm tuyên xưng đức tin, mà còn mang trong người tinh thần truyền giáo mãnh liệt. Cần ghi lòng tạc dạ đôi lời trối trăn của : Thánh Anê Lê Thị Thành đã nói với người con Lucia Nụ vào thăm, thấy áo bà đầy máu, cô khóc, rằng : "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Kitô, sao con lại khóc." Rồi bà khuyên tất cả các con : "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con, coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ được vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng." Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ rất bình tĩnh và can đảm, trả lời về những lời khuyên can của phu nhân : "Lời bà khuyên nhủ như đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi. Bà đem con về săn sóc thay tôi, sớm hôm cầu nguyện nhiều cho tôi vững lòng xưng đạo Chúa trước mặt thiên hạ. Hẹn ngày sau gặp bà và các con chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước Thiên Đàng." Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng có 8 con. Góa vợ từ năm 50 tuổi. Gà trống nuôi con. Dù bận công việc buôn bán làm ăn, Thánh nhân luôn chu toàn bổn phận giáo dục con sống đạo, nên người. Giáo dục con bằng gương sáng và việc làm. Ông siêng năng xưng tội chịu lễ, thăm bệnh nhân, giúp đỡ người nghèo. Trước khi bị chém đầu, có mặt con trai và gái, Thánh Phượng trối những lời thật xúc động : "Các con của cha ơi, đừng khóc, đừng buồn. Cha đã gặp vận hội may. Anh em chúng con hãy sống thuận hòa, yêu thương đùm bọc nhau." Một quan trẻ trong triều ngỏ ý muốn lấy con gái Ông, nếu Ông đồng ý, quan thả Ông tự do. Thánh nhân khôn ngoan trả lời : "Không được, trừ khi chính anh theo Đạo. Tôi không gả con gái cho người ngoại Đạo. Dù ông là quan gì đi nữa. Tôi sợ con tôi không giữ được đức Tin. Nếu vì ly do đó, dù phải chết, tôi sẵn sàng." Tại pháp trường, Thánh Phượng vừa đeo vào cổ ảnh Thánh Giá cho con gái tên Anna Nhiên, vừa nói : "Con hãy nhận lấy kỷ vật này của cha. Đây là ảnh Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều. Con nhé." Thánh Simon Phan Đắc Hòa là cha của gia đình 12 người con. Là y sĩ, Thánh nhân siêng năng chữa bênh, chăm sóc bệnh nhân, người già yếu, cô quả cô đơn. Với tư cách làm trùm họ, Ông nhắc bảo, răn đe giáo hữu trong họ không được biếng trễ kinh hạt, lễ lạy, bê tha rượu chè cờ bạc. Ông hiên ngang ra pháp trường khi trong gia đình vợ con thuận hoà, hy sinh và yêu thương trong tình yêu Thiên Chúa. Các con ghi lòng tạc dạ, lời cha dặn khi vào thăm lần cuối : "Cha yêu thương các con nhiêu và hằng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn. Các con hãy vui lòng vâng theo thánh y Chúa, đừng buồn. Các con với mẹ thương yêu nhau, chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con nữa. Chúa muốn cha chịu khổ. Cha xin vâng." II. VAI TRÒ GIÁO DÂN TRONG THỜI CẤM ÐẠO Rất đông đảo giáo dân đồng thời với các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng hy sinh liều mạng bên cạnh các anh hùng để "cho nước Chúa được mở rộng". Như trong các trường hợp : Trước hết là bao che các vị Tử Đạo. Không sợ liên lụy dù có bị tra khảo, giáo dân sẵn sàng đón tiếp các vị tử đạo ẩn trốn tại nhà, để trong vách đôi, hay dưới hầm, giấu cất các đồ thờ phượng, không chịu chỉ nơi trú ẩn của các thừa sai, linh mục và giới chức. Lễ Hiện Xuống ngày 2-4-1861, Thánh Linh mục Gioan Đoàn Trinh Hoan (Huế, 1798-1861) đến xứ Sáo Bùn, Quảng Bình, làm lễ cho giáo dân và trú ngụ nhà ông trùm Mathêu Nguyễn Văn Phượng (Huế, 1808-1861). Ông trùm Phượng rất rộng rãi đã đón tiếp nhiều linh mục, thầy giảng ẩn trốn ngay trong nhà mình. Sau khi bắt cha Hoan, lính ập vào nhà ông trùm, thấy áo lễ, chén thánh, bánh lễ, ảnh tượng... Lính liền bắt ông và giam chung với Cha Hoan ở Đồng Hới. Cùng bị bắt có 7 giáo dân, ông trùm Phượng cùng tử đạo với Cha Hoan. Trong tù, giáo dân công khai tổ chức những buổi đọc kinh, cầu nguyện, lần chuỗi. Trước sự hăng say và nhiệt thành này, nhiều trại tù đã trở thành nhà thờ, ngày đêm có tiếng khấn nguyện. Năm 1859, cùng bị bắt với Thánh linh mục Thomas Khuông (Hưng Yên, 1780-1860) có 4 chức sắc thuộc làng Cao Xá. Cha và 4 giáo dân nhiệt thành này luôn sát cánh hỗ trợ và nâng đỡ tinh thần nhau. Bên ngoài, những ai không bị bắt lại hăng say tìm cách liên lạc, tiếp tế cho anh em trong tù có điều kiên vật chất sinh sống qua ngày. Các linh mục giả dạng dưới nhiều hình thức để lọt vào trại giam giải tội, làm các phép bí tích cần thiết. Các chị dòng MTG đã tích cực trong việc liên lạc kín đáo nguy hiểm : chuyển thư, tiếp tế, đưa đồ thánh... Tại lao xá Thăng Long, Thánh linh mục Phanxico Federich Tế (Tây Ban Nha, 1702-1745) được linh mục Nghi giả dạng là thầy lang vào giải tội và đem Mình Thánh Chúa, cùng đi còn có người cháu tên Kính. Hai chị em bà Gạo, ngoại giáo vào xin quan cho cha Tế tá túc tại nhà mình, nên cha được tự do đi lại trong Thăng Long. III. PHƯƠNG ÁN TRUYỀN GIÁO THÁNH GIÁM MỤC TÊPHANÔ THÉODORE CUÉNOT THỂ Phương án truyền giáo của Đức Cha Thể (1802-1861) rất thực tế và hữu hiệu, đã thực hiện trong 26 năm làm giám mục tại VN (1835-1861). Mặc dầu trong thời bách đạo, gặp nhiều khó khăn, phương án này đã đem lại kết quả rất tốt đẹp. Ngài đã tạo thành một xứ đạo sống động, sầm uất. Sau này, người ta thấy nhiều xứ đạo tại miền bắc còn áp dụng. Phương án này gồm 6 hình thức : . Cầu nguyện. Cầu nguyện là nhu cầu quan trọng hàng đầu, đối chính bản thân và khi khởi sự làm việc gì. Vì Ngài đã có kinh nghiệm nhiều trong thời gian khủng hoảng khi còn là chủng sinh. Cậu Têphanô đã thức tỉnh, ‘‘trỗi dậy nhờ cầu nguyện và làm bất cứ việc gì Chúa soi sáng’’. Theo Ngài, cầu nguyện không phải lặp đi lặp lại đứt quãng nhưng là bắt liên lạc không ngừng với Thiên Chúa, một sự hiến dâng từng giây phút những đau khổ, những lo âu. Trong thời gian sống ở hầm trú, sức mạnh của lời cầu nguyện đã giúp Ngài điều hành giáo đoàn sống đức tin vững mạnh. 2. Lập đoàn giáo lý viên. Trong thời gian cấm đạo, linh mục và các thầy giảng quá ít lại phải lẩn trốn. Thánh Têphanô Thể luôn sống trong hầm tối tăm, thiếu thốn, không thể trực tiếp truyền giáo bên ngoài. Nhờ soi sáng trong lúc cầu nguyện, năm 1841, ngài bắt đầu tổ chức nhóm giáo lý viên. Chọn trong những người tự nguyên. Chia làm ba nhóm, theo mức hiểu biết và tinh thần phục vụ khác nhau : - Nhóm nòng cốt 21 người : gồm đàn ông trưởng thành. Có đức tin vững, được huấn luyện kỹ, có khả năng, khuyên và dạy giáo ly cho tân tòng, chuẩn bị rửa tội. - Nhóm 35 người : gồm thanh niên khỏe mạnh, lanh lợi, ăn nói được, đi theo các thừa sai và linh mục VN. Họ có trình độ dạy giáo lý cho giáo dân dự lễ, xưng tội và các bí tích khác. Họ được đào tạo trở thành thầy giảng. Mỗi linh mục có 4 hoặc 3 thày giảng cùng làm việc. Các đoàn nhỏ này sống lưu động bằng lều trại. - Nhóm đông hơn tới 2000 người : gồm những người cha trong gia đình, ở trong thôn làng. Công việc của họ là giữ trật tự an ninh trong xứ đạo, hay họ lẻ, thăm bệnh nhân, mời linh mục đi xức dầu bệnh nhân, rửa tội trẻ em sơ sinh, làm chứng hôn nhân. 3. Tổ chức học và thi giáo lý Ngoài lớp đặc biệt cho tân tòng, các giáo lý viên mở lớp dạy giáo lý cho giáo dân, lớp cho trẻ em, lớp cho thanh niên nam nữ, lớp cho người lớn tuổi. Phần đông mở ngay trong xóm và vào buổi tối, khuya tới 11, 12 giờ. Vê giáo lý thì học theo kiểu học thuộc lòng bằng những hỏi đáp, ca vè vắn gọn, dễ nhớ dễ thuộc. Tất cả các kinh được chia theo lứa tuổi. Cuộc thì tổ chức vào buổi tối, sau mùa gặt. Sau khi cơm nước và xong việc, trong thôn xóm, người ta chong đèn lên học. Hầu hết các kinh cũng được người ta hát lên. Nhộn nhịp và hào hứng nhất là thi giáo lý, cho thiếu nhi, thanh niên và cả người trưởng thành. 4. Tổ chức cấm phòng. Tổ chức cấm phòng không riêng cho những người đạo cũ, mà cả cho người lương hay những người thiện chí chưa có quan niêm rõ rệt về giáo lý. Thời gian cấm phòng kéo dài tới 40 ngày. Họ được tập trung một nơi để học giáo lý, nghe sách đạo, và ăn cơm chung. Nếu ai bằng lòng học giáo lý tân tòng sẽ được mời về họp trong các họ đạo trong vùng. Từng nhóm 10, 15, hay 30 tùy theo có giáo lý viên. Nữ dạy cho nữ, nam cho nam. Mỗi ngày hai hay ba lần. Ngoài giáo lý còn có bài cắt nghĩa để họ khỏi mê tín và dị đoan. Trong giờ cơm chung họ phải nghe đọc sách đạo. Các buổi cấm phòng thường do các giáo lý viên tổ chức. Vì các linh mục phải lo mục vụ bên ngoài. 5. Dịch vụ tương trợ. Sau khi các tân tòng được rửa tội, phải tránh việc để cho các tân tòng trở vê sống chung lại với người ngoại và gia đình họ. Để tránh quấy rày và ảnh huởng mê tín dị đoan. Nên Đức Cha đã dựng những lều trại, ở trong khu người công giáo. Cần độ 7 hay 8 quan Pháp đủ để nuôi một gia đình mới này. Sau đó mới tìm đất mới, rồi đem những gia đình hỗn hợp đạo mới cũ đến lập nghiệp. Không lấy làm lạ, khi các Thừa Sai mới đến VN, đã lập những làng toàn công giáo. Đức Cha còn xin viên trợ để chuộc trẻ em bị bán cho người khác, hay những trẻ mồ côi. Mở cô nhi viện để chăm sóc và nuôi các em. Cứ hai Dì Phước và hai em lớn có đạo, điều hành một cô nhi viện, với khoảng 30 em, tuổi cỡ từ 7 cho đến 20. Đa số là con gái. Các em do cha mẹ cho, hay đi lượm về. Nếu không đủ nhà, thì cho ở tạm nhà giáo lý viên, chờ cất nhà mới. ĐC vừa trốn chạy, vừa thực hiên cứu trợ và định cư. Công việc thật khó khăn và tốn kém. 6. Giáo dục giới trẻ Đức Cha rất chú trọng tới việc tập trung vào một nơi những thanh thiếu niên nghèo để giáo dục, đào tạo và dạy chữ nghĩa cho họ nên người hữu ích. Giáo trình, theo chương trình đơn giản và mau chóng. Mục đích để có người có khả năng thay thế các Thầy Giảng bị bắt hay chết trong giai đoạn cấm đạo. Nhưng kế hoạch phải bỏ dở. Vì cha mẹ họ quá nghèo, lại sợ con bị bắt và liên lụy, nên đành để con dốt nát. Số người trẻ thiên chí quá ít. Để cứu vãn tình thế, phải nhờ các thày dạy riêng và bắt các thanh niên tự học. Thật quá tốn kém. Trong 15 xứ đạo mà không tìm được lấy một vài thày giáo có đạo giỏi tốt lành, có uy tín. Trong khi đó, thày giáo người lương thì không thiếu. Sách vở viết toàn là mê tín và dâm đãng. Nên phải mở trường đào tạo thày dạy trước. Phải trả tiên cho mỗi giáo sư là 150 quan, mỗi năm. Và mỗi đầu người học trò tốn kém 60 quan. Như vậy một năm phải có cả 1000 quan, cho một lớp độ 14 người, khóa trình kéo dài ba năm. Mỗi tỉnh chỉ có một trường. Các giáo sư dạy luân phiên, hết trường này qua trường khác. Đặc biệt, Đức Cha chọn những ứng viên suất sắc gửi qua đại chủng viên, bên Penang để chịu chức linh mục. Tới năm 1861, Ngài đã gửi đi được 23 học sinh ưu tú. IV. NẾP SỐNG ÐẠO CỦA CHA ÔNG Cha ông chúng ta đã giữ đạo chân thành nhiêt tình từ gia đình đến cộng đoàn. Từ ngày thường đến những đại lễ, và các mùa phụng vụ trong năm. 1. Mùa Giáng Sinh Thời Cha Đắc Lộ, giáo dân dành cả tháng trước để chuẩn bị lễ, đông nhất là thiếu nữ đã tụ họp quanh nhà thờ tập các bài vãn, vè vê lễ Giáng sinh. Ngày vọng, trước nửa đêm, cha làm phép rửa tội cho tân tòng theo nghi thức trọng thể. Những ai trước kia được rửa tội đơn giản, thì nay tập trung làm một lượt. Rước và hôn tượng Chúa Hài Đồng. Hát ca vãn trước hang đá. Được biết, thời xưa vẫn còn giữ lễ giáo, đàn bà không được ra khỏi nhà ban đêm. Nên lễ đêm là của đàn ông nhiêu hơn. Lễ ngày rất đông. Sau lễ đêm có rước tượng Chúa Hài Đồng và hôn Chúa Hài Đồng. Năm 1643, các thầy giảng tổ chức lễ Giáng sinh ngay trong dinh tổng trấn Nguyễn Phúc Khê, con Bà Minh Đức. Thầy Giảng Chân Phước Anrê Phú Yên, rất khéo tay làm một hang đá thật đẹp. 2. Mùa Chay và Tuần Thánh Thời gian Cha Đắc Lộ ở Quảng Nam và Thuận Hóa (1627-1628), giáo dân tổ chức tuần thánh rất trang nghiêm và sốt sáng. Ngay từ chiều thứ tư Tuần Thánh, người Bồ Đào Nha buôn bán và tín hữu trong vùng đã lũ lượt kéo nhau vê tham dự. Họ bắt đầu thức khuya, dậy sớm. Mình Thánh Chúa được đặt nơi cao, trọng thể trong suốt ngày thứ Năm kéo dài tới đêm. Tối khuya, có lễ rửa chân cho những người nghèo. Các ‘‘môn đệ nghèo’’ này đã khóc cả buổi lễ, vì mình là người mà được diễm phúc chọn. Ngày thứ Sáu, trưng bày Thánh Giá để tôn kính và bái lạy. Đồng thời có ngâm các ‘bài ca thương khó’ về cuộc tử nạn Chúa Giêsu. Tới lễ Phục Sinh, vì đông người quá, cha phải làm hai ba lễ. Nhà thờ quá nhỏ, giáo dân phải ngồi la liệt ngoài hiên. Đêm thứ Bảy Phục Sinh làm lễ rửa tội cho dự tòng. 3. Ăn chay, và kiêng thịt Xưa luật ăn chay kiêng thịt trong các ngày thứ sáu của Tuần Thánh. Từ lễ Tro cho đến thứ sáu Tuần Thánh. Lễ tro bắt đầu mùa Chay. Thánh Lễ Tro được làm thật sớm, để sau đó dân làng đi làm việc. Sau khi làm phép tro, linh mục chủ sự quì trước bàn thở, tự bỏ tro trên đầu mình. Rồi đứng lên lần lượt bỏ tro trên đầu giáo dân. Giáo dân đông như ngày lễ buộc. 4. Đeo ảnh tượng trong người Đeo ảnh tượng trong người là hình thức tuyên xưng đức tin. Sau khi rửa tội, cha rửa tội đeo vào cồ trẻ em cỗ áo Đức Bà. Đến ngày xưng tội lần đầu, em được đeo thêm ảnh Thánh Giá Chịu Nạn. Đến khi lập gia đình, Cha xứ thường làm quà cho vợ chồng mới mỗi người một sâu chuỗi và dạy cách lần chuỗi Mân Côi. Thời cấm đạo, hễ quân lính bắt được tín hữu công giáo nào, thì truớc hết họ bắt lột hết ảnh tượng trong người. Và coi những người mang ảnh tượng là tín hữu nhiêt thành, bắt chối đạo. V. HỌC HỎI NƠI TIỀN NHÂN Nhìn vào những thành quả trên, chúng ta cần học hỏi nơi tiền nhân những điểm thực hành : 1. Sách giáo lý và giáo án Sách giáo lý và giáo án được Giáo quyên phê chuẩn luôn là căn bản của giáo án cho tân tòng và thiếu nhi. Ngày nay có nhiều loại sách dưới dạng "Sách Giáo Lý", "Thánh Kinh" hay "Sách đạo đức"... ấn hành và bán với giá rẻ. Ngay cả sách vở của những tôn giáo khác. Phải lựa chọn và lượng định kỹ để dùng làm sách giáo khoa. 2. ‘‘Hãy lên mái nhà mà rao giảng'' (Mt 10, 27). Đây là lời khuyên của ĐGH Gioan Phaolo II áp dụng cho chiều hướng truyền giáo mới, phù hợp với nền văn minh hiên đại. Văn minh càng tiến, nhà truyền giáo cần có nhiều hiểu biết về sự đổi mới về tư tưởng và suy tư của người nghe. Nhà truyền giáo hôm nay, cần khéo léo xử dụng phương tiện truyền thông, sách vở, phim ảnh, báo chí vào việc truyền bá tư tưởng và văn hóa. Phương tiện nhạy bén và hữu hiệu. 3. Ơn gọi tông đồ giáo dân giữa cộng đoàn. Ngày nay ơn gọi linh mục, tu sĩ hiếm. Nhưng chúng ta có đội quân lớn đông đảo là lớp tông đồ giáo dân, các giáo lý viên, thành viên Hội Đồng Mục Vụ. Họ thuộc thành phần trí thức, có nếp sống đạo tốt trong gia đình và cộng đoàn. Nếu có chương trình đào tạo, tu dưỡng tĩnh tâm, hướng dẫn cẩn thận và phương pháp. Họ sẽ là những chiến sĩ đắc lực cho cánh đồng truyền giáo. Cổ võ và khuyến khích, nâng đỡ ơn gọi Phó Tế Vĩnh viễn và Trinh nữ Tận Hiến. Họ được đào tạo để vừa chu toàn có trách nhiệm gia đình, vừa nhiệt tình làm việc cho vườn nho vào những giờ ban chiêu. VI. SỐNG ÐẠO LÀ TRUYỀN GIÁO Sống đạo là truyền giáo là phương pháp truyền giáo hữu hiệu nhất. Trong gia đình cha mẹ, con cái truyền giáo cho nhau. Nghĩa là nêu gương sáng cho nhau. Sau đây là một chứng từ. Trên chuyến xe lửa Lyon - Paris (?), có một cụ già tóc điểm bạc, mặt hiền lành ngồi chung toa tàu với một thanh niên có vẻ trí thức, đẹp trai, đeo kiếng, ăn mặc rất hợp thời trang. Trên tay anh là cuốn sách dầy cộm, được mở từng trang, với sự thích thú say mê đang chăm chú vào trang sách đọc. Thỉnh thoảng anh gật gù mỉm cười đắc ý như khám phá được gì trong sách. Làm người chung quang tò mò xem trong sách nói gì. Thời gian trôi qua, cuốn sách cũng đến trang cuối. Không còn gì đọc, anh đứng nhìn trời đất cảnh vật qua cửa sổ. Một hồi lâu anh cảm thấy chán. Anh nhìn đồng hồ và cảm thấy chán, nhắm mắt lim dim ngủ. Con tàu tiếp tục lắc lư với những tiếng rì rầm, cọc cạch đêu đêu, khiến cho du khách đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Còn cụ già không ngủ, không đọc sách cũng không ngắm nhìn cảnh vật. Trên tay, cụ cầm chuỗi tràng hạt. Cụ ngồi đối diện với chàng thanh niên. Miệng cứ lâm râm đọc cái gì đó, thỉnh thoảng cụ nhắm mắt rồi lại mở, và cứ đọc tiếp. Một vài giờ sau, thanh niên mở mắt, bồn chồn lo lắng, nhìn quanh. Hầu hết hành khách đều ngủ. Cụ già vẫn thức, cỗ tráng hạt không rời khỏi tay. Chàng thanh niên thì thào, có lẽ muốn nói chuyện với cụ già kia. Nhưng ông cụ cứ say mê lần chuỗi. Không chịu đựng được, anh thanh niên cất tiếng hỏi : - Thưa cụ, cụ làm gì mà cứ ngồi lầm rầm một mình hoài. Có lẽ cụ là công giáo ? Cụ già cất xâu chuỗi, làm dấu thánh giá, chậm rãi trả lời : - Vâng, tôi là công giáo. Tôi lần chuỗi Mân Côi. - Chuỗi Mân Côi là gì. Sao cụ say mê quá vậy ? - Vì lòng mến của tôi đó mà. Chàng thanh niên cười và nói : Chắc có lẽ cụ không hiểu khoa học hiện đại và văn minh tiến bộ ngày nay, nên cụ còn đọc kinh mãi thôi. Người văn minh có ai ngồi đọc kinh cho mệt. Theo tôi, người công giáo chỉ là loại thuốc ngủ, ru cho người ta ngủ mê theo giáo thuyết. Chứ làm gì có Thiên Chúa ? Đâu ai có ai tin Thiên Chúa ? Tôi sẽ cho cụ mượn sách mà đọc để tìm hiểu rộng rãi hơn. Cụ già đáp : Anh nói hay, nhưng tôi có niềm tin riêng. Anh thanh niên đắc chí, và nói xin cụ cho tôi địa chỉ, để gửi sách cho cụ. Cụ già lấy ra một carte visite nhỏ, có ghi : Bác học Louis Pasteur, Viện Y Học Hàn Lâm, Paris Chàng thanh niên nhìn tấm carte, thẹn đỏ mặt, mắt hoa lên, nghẹn lời... Tiếng còi tàu ngưng trên sân ga. Cụ già ngỏ lời mời chàng thanh niên đến chơi và bắt tay tạm biệt. (Nguyệt San Hội Truyền Bá Đức Tin, Toronto, Canada, số 4, 2001, ttr. 67- 68) Cuối bài, xin nhắc lại và đề cao tinh thần sống đạo của vị Thánh trẻ Dominque Savio (Ý, 1842-1857), học trò của Thánh Don Bosco. Để chứng minh, tuổi nào, thời nào, chúng ta cũng có thể "nên thánh’’ bằng đời sống trong ngày. Dominique Savio là em bé ngoan và dễ thương, luôn vâng lời cha mẹ và giúp đỡ bạn bè. Nhà nghèo, phải đi học xa, nên em thường đi bộ đến trường với đôi giầy đeo trên vai. Vì đi nhiều sẽ mòn. Một hôm trên đường đến trường, em gặp một người lạ mặt cùng đi. Người lạ mặt bắt chuyện, hỏi thăm và biết em phải đi vê 16 cây số. Nghe thế, người lạ hỏi : - Hàng ngày đi về con đường dài như thế có mệt lắm không ? Em trả lời : - Làm sao người ta thấy mệt, khi được trả công rất hậu. Người lạ hỏi tiếp : - Em đi làm cho ai ? Savio trả lời : - Em đi làm cho Chúa. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho những ai vì lòng yêu mến Người. Công trả không phải đời này, mà trả sau này, mới cao quí và đáng kể : "Ai làm điều lành thi sẽ sống lại để sống". (x. Ga, 5, 29). ĐGH Pio XII đã phong thánh cho Dominique Savio, năm 1954 (Le Livre des Merveilles, Mame / Plon, tr.890) Trong bài giảng kết thúc chuyến viếng thăm Ba Lan, ngày 28-5-2006, ĐGH Benedicto XVI nói về sứ mệnh "làm chứng cho Tin Mừng" thời nay, như sau : Chúng ta cần trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu. Người đã trao cho chúng ta một sứ mênh, khi Ngài vê trời : "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật." Chúng ta hãy từ đất nhìn lên trời, hãy hướng về Đấng các thế hê liên tục nhau trông chờ, và là Đấng họ khám phá thấy được ý nghĩa cuộc sống. Được kiên cường bởi niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, anh chị em hãy nhiệt thành với việc củng cố nước Ngài trên thế gian này bằng thiện hảo, công lý, đoàn kết và tình thương. Anh chị em hãy can đảm làm chứng cho Tin Mừng trước thế giới ngày nay, mang hy vọng tới người nghèo, người đau khổ, thành phần lầm lạc và bị bỏ rơi, thành phần thất vọng và những ai trông đợi tự do, chân lý và an bình, bằng việc làm cho tha nhân của mình, và tỏ ra quan tâm đối với công ích. Anh chị em hãy làm chứng rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Mới nhất, 14-9-2006, trong chuyến vê thăm quê hương, tại nhà thờ chính tòa Freising, nơi mà năm 1951, ngài được thụ phong linh mục, đã nói với linh mục và phó tế như sau : ‘Mùa gặt thật là rộng, không những lúc Chúa ở ở Palestine, nhưng cả ngày nay, trong tâm hồn của con nguời mùa gặt cũng đang gia tăng. Dân chúng mong đợi một lời, không phải chỉ một lời nói, nhưng lá lời nói Tình Thương của Thiên Chúa, đi xa hơn cuộc sống tầm thường. Đúng vậy, có mùa gặt, và Thiên Chúa muốn con người chấp nhận cộng tác vào mùa gặt của Ngài, để hun nóng nhân loại mới bằng niêm vui tươi và yêu thương. (DCÂC. 288, 10-2006, tr. 34). Tài liêu tham khảo : - Nguyệt san Giáo Xứ Việt Nam, số 115, 6,1995; số 120, 1-1996; số 126, 7-1996; số 128, 11-1996; số 147, 11.1998. - Gm. Phêrô Nguyễn Soạn, Tông đồ theo gương Thánh Têphanô. Bản Tin Hiệp Thông, Hội Đồng Giám Mục VN, số 12. Tháng 5-2002, tr. 17. - Thiên Hùng Sử. 117 Hiển Thánh Tử Đạo VN, ttr. 423-429. - Mục Vụ Thụy sĩ. Số 173, 12-1998, tr. 38- 41) Câu Hỏi Trao Đổi Ngày nay, làm cách nào theo gương các thánh Tử Đạo Việt Nam để ‘‘Làm chứng cho Tin Mừng’’ ? Có thể làm gì để ‘’Làm chừng cho Tin Mừng’’ trong gia đình, cộng đoàn và môi trường sinh sống ? | |
Trang chủ | Trang các Thánh |