Thánh Tử Đạo Việt Nam Chư Thánh Tử Đạo trên Đất Việt | |
Theo lịch sử, đầu tiên các vị anh hùng tử đạo trên đất Việt đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt: đợt thứ nhất vào ngày 27/5/1900, Đức Lêô XIII tôn phong 64 vị; đợt thứ hai vào ngày 20/5/1906, Đức Piô X tôn phong 8 vị; đợt thứ ba vào ngày 2/5/1909, cũng chính Đức Piô X tôn phong 20 vị nữa; và đợt vào ngày 29/4/1951, Đức Piô XII tôn phong 25 vị. Trong số 117 vị, có 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân. Hồ sơ phong thánh đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau đây: về phía các vị Việt Nam có Thánh Anrê Dũng Lạc, linh mục (+1839); thánh Tôma Trần Văn Thiện, chủng sinh (+1838); thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, linh mục (+1857); thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, giáo lý viên và cha gia đình (+1859). Về phía các vị ngoại quốc có các tu sĩ dòng Đa-minh người Tây-ban-nha thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi là thánh Giêrônimô Hécmôxila Liêm, giám quản tông toà địa phân Đông đàng ngoài (+1861); thánh Valentinô Beriô Ôchoa, giám mục (+1861); và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP), thánh Têôphan Vêna (+1861). Ngày 19-6-1988, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tôn phong hiển thánh 117 chứng nhân tử đạo trên Đất Việt. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những điểm chính yếu trong bài giảng của ngài cho Thánh Lễ Phong Thánh có một không hai trong lịch sử của Giáo Hội ở Việt Nam này, qua bản dịch của Đức Ông Trần Ngọc Thụ.
Anh chị em thân mến, “Chúng tôi rao giảng Chúa Giêsu tử nạn Thập Giá” (1Cr 1, 23) Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó một phụ nữ, Thánh Agnès Lê Thị Thành, mẹ sáu người con? Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại suốt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Để lấy một ví dụ: Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiền phong có Thánh Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dậy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên trở thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt. Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì Đức Tin - ngài nói – thì lên Thiên Đàng thẳng cẳng; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền: thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo có phải hơn không?”. Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21-12-1839. Các vị Tử Đạo Việt Nam “gieo trong lệ sầu”, có nghĩa là các ngài đã khởi sự giữa lớp người đồng hương và giữa nền văn hóa dân tộc một cuộc đối thoại sâu rộng và cởi mở, bằng cách nêu cao chân lý và tin vào Chúa là sự kiện phổ cập tất cả hoàn cầu. Đồng thời, các góp phần vào việc nhận định các giá trị và nghĩa vụ thích hợp với nền văn hóa tôn giáo trong thế giới Đông Phương. Trong cuốn giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã tuyên xưng nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi một bản thể đã tạo dựng trời đất. Ra trứơc quan quyền tra khảo về ĐỨC TIN, các vị Tử Đạo đã quả quyết mình được tự do tín ngưỡng, và đạo Chúa Trời là đạo duy nhất, nếu mình từ bỏ là bất tuân lệnh Thương Đế, tức là Thiên Chúa. Đồng thời, các ngài đã can đảm nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, nhưng không vì thế mà làm điều gì bất chính. Các ngài đã dậy phải tôn kính Tổ Tiên theo truyền thống dân tộc, và dưới ánh sang mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó, với sự dấn thân và hành động chứng nhân của các vị Tự Đạo, Giáo Hội Việt Nam hiên ngang nói lên sự quyết tâm và tha thiết của mình, không chối bỏ truyền thống văn hóa và các thể chế quốc gia, trái lại, Giáo Hội tuyên xưng và chứng minh rằng: nếu mình nhập cuộc trong truyền thống và văn hóa dân tộc là vì có góp phần vào việc xây dựng quốc gia một cách trung thực hơn. Và rồi những cuộc đấu tranh, những căng thẳng chính trị hồi xưa, xen lộn vào trong những bang giao giữa giáo dân và nhà cầm quyền, những quan hệ lợi hại giữa các tôn giáo, những lý do kinh tế xã hội, sự kiện người ta không hiểu rằng: Tín ngưỡng bao hàm quan niệm siêu việt và phổ cập toàn thế giới là những yếu tố tạo nên trần gian như một nồi nung nấu, trong đó thanh lọc mọi khía cạnh, để chỉ nổi bật nét khiết bạch và sức dũng mạnh của tấm gương nhân chứng. Một lần nữa, giữa giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng: máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong ĐỨC TIN. Giữa anh em, Đức tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. ĐỨC TIN này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô. Các Thánh Tử Đạo: Tử Đạo Việt Nam! Các ngài là chúng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Chứng nhân là con người vẫn được kêu gọi về hướng trường sinh. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, anh em sẽ được nhiều ơn vĩ đại, là ví Thiên Chúa đã luyện lọc anh em và thấy anh em xứng đáng, Ngài đã thử thách anh em như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận anh em như của lễ toàn thiêu. Phải, của lễ toàn thiêu hợp với của lễ hy sinh trên Thập Giá của Chúa Kitô. Là vì kiên cường cho đến chết, anh em đã tuyên xưng Chúa Kitô tử nạn – Ngài là sự khôn ngoan, là quyền năng Thiên Chúa. Chúa Kitô: trong Ngài chúng ta được Thiên Chúa cứu rỗi. Cũng theo ghi nhận của lịch sử thì danh sách các vị tử đạo trên đất Việt đã xẩy ra như sau: Nếu lấy mốc điểm lịch sử là biến cố Thánh Mẫu La Vang năm 1798, thì trước biến cố này mới chỉ mở màn có 6 vị trong thế kỷ 18, và sau biến cố này trong thế kỷ 19 thêm 111 vị nữa, hoàn toàn dưới triều nhà Nguyễn. Nếu chia theo các triều đại thì Thời Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) 2 vị, thời Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) 2 vị; thời Cảnh Thịnh (1782-1802) có 2 vị; thời Minh Mạng từ 1820 đến 1840 có 50 vị; thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến năm 1847 có 3 vị; và thời Tự Đức từ năm 1847 đến 1862 và 1883 có 58 vị. Các vị đã bị hành quyết như thế nào, cũng đã được lịch sử ghi nhận như sau: 1 vị bị xử bá đao, tức bị cắt từng miếng cho đủ trăm mảnh; 4 vị bị lăng trì, tức bị chặt tay chân trước khi chém đầu; 6 vị bị thiêu sinh đều vào tháng 6 năm 1862; 76 vị bị xử trảm, tức bị chém đầu; 21 vị bị xử giảo, tức bị tròng giây qua cổ rồi kéo hai đầu giây cho đến khi chết, và 9 vị bị chết rũ tù. Trong vụ tranh chấp về vụ Tòa Khâm Sứ ở Tổng Giáo Phận Hà Nội đầu năm nay, vị chủ chăn trẻ trung Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt ở đây đã tuyên bố là ngài sẵn sàng hy sinh cho con chiên và chính nghĩa. Chứng nhân tình yêu Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam. Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó. Tình yêu của các ngài là tình yêu hi sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa. Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39). Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13). Tình yêu cuộc sống Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng. Tình yêu nhân loại Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình. Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen). Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo. Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen Ai trong chúng ta cũng đều biết, trong số 117 vị tử đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19/6/1988, không phải toàn là người Việt Nam, mà còn cả những vị thừa sai ngoại quốc người Pháp và Tây Ban Nha nữa: 10 vị gốc Pháp, 2 giám mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa Sai Balê, và 11 vị gốc Tây Ban Nha là 6 giám mục và 5 linh mục thuộc Dòng Đaminh. Bởi thế, danh xưng "Các Thánh Tử Đạo Việt Nam" cần phải được điều chỉnh cho đúng, đó là "Các Thánh Tử Đạo Ở Việt Nam (hay) Trên Đất Việt". Tuy nhiên, tinh thần tử đạo thì hoàn toàn có tính cách Công Giáo như nhau, điển hình nhất là vấn đề tôn trọng quan quyền và lòng quí chuộng gia đình, hai vấn đề rất tế nhị liên quan tới văn hóa địa phương của Việt Nam, cánh đồng truyền giáo của Tây Phương sau phong rào khám phá tanâthế giới cuối thế kỷ 16. Chúng ta hãy đọc nhận định của tác giả Hiếu Trung Dòng Đaminh dưới đây. Tôn Trọng Vua Quan và Hết Lòng vì Quê Hương Hội nhập vào nền văn hóa Á Đông theo chế độ xã hội gia trưởng, Giáo hội Việt Nam đã có nét suy tư sáng tạo đặc biệt đóng góp cho Giáo hội toàn cầu. Ngay từ thời linh mục Đắc Lộ, tín hữu Việt Nam đã coi nhà cầm quyền như một người cha, mọi người đều là con trong đại gia đình dân tộc. Linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được” (6). Dĩ nhiên trong bối cảnh lịch sử “thượng tôn tống Nho” của nhà Nguyễn, thì việc đề cao chữ hiếu hơn chữ trung đủ làm cho triều đình thêm khó chịu. Vì khi đề cao hiếu hơn trung, người Công giáo tuân lệnh vua một cách có suy nghĩ, có chọn lựa, tuân giữ luật lệ hợp lý, nhưng bạo dạn phản đối điều nghịch lý trái với lương tâm mình. Dầu sao giới Công giáo không tổ chức nổi loạn, bạo động. Giám mục Alonso Phê trong thư chung năm 1798 xác định khí giới đánh giặc bách hại “chẳng phải là súng ống gươm giáo đâu, mà là đức tin, lời cầu nguyện và đức bác ái” (7). Đức cha Xuyên ra vạ tuyệt thông cho ai tổ chức bạo động, và buộc những ai vu cáo ngài cổ động nổi dậy phải cải chính công khai (7). Giám mục Hermosilla Liêm nhắc nhở các tín hữu phải tuân giữ luật nhà phép nước, còn nếu bị vu cáo tội chính trị thì cứ an tâm, vì Đức Giêsu xưa từng bị dân Do Thái lấy cớ chính trị để giết (Ga 19:12). Ngài nói tiếp: ”... Phô con đừng hòa tập vuôi giặc, đừng nghe chúng nói dối dá đấng ấy đấng khác sai chúng nó, vì cái ấy là không hẳn” (8). Là dân trong nước, các tín hữu sẵn sàng thi hành nghĩa vụ công dân, từ thuế khóa cho đến gia nhập quân ngũ. Năm 1838 nguyên tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh quang Khanh đã tụ tập được năm trăm binh sĩ Công giáo, để rồi bắt đạp lên thánh giá (9). Trong quan trường, chiếu chỉ tháng 9.1855 ra lệnh sàng lọc các quan Công giáo, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng (10). Thế mà sáu năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đình còn bắt được ba mươi hai viên quan, ba người chối đạo, mười tám bị giết, mười một bị lưu đày (11). Các thừa sai Pháp sẵn sàng làm nhân viên thông dịch cho nhà vua. Chính Minh Mạng định phong các ngài làm quan chức trong triều đình. Linh mục Gagelin Kính đại diện anh em từ chối đặc ân đó, “tuy nhiên, những việc đó nào có thể dung hòa với nhiệm vụ linh mục của tôi, tôi sẵn sàng giúp đỡ nhà vua”. Thừa sai Jaccard Phan liên tục giúp vua mười năm, dù bị lãnh ba án tử hình: Lần đầu vua giảm thành án xung quân để dịch sách, lần hai đổi thành án lưu đầy chung với thừa sai Odorico Phương, vị này chết nơi rừng thiêng nước độc, còn ngài vẫn sống sót và tiếp tục dạy sinh ngữ và dịch sách cho hoàng triều. Lần cuối cùng cha tử đạo vào ngày 21.9.1838. Trước đó, nhiều người khuyên ngài bỏ trốn, ngài nói: “Không bao giờ, tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều ác”. Cuốn giáo lý đầu tiên cho người Công giáo Việt Nam, cuốn “Phép giảng tám ngày” (1651) của cha Đắc Lộ đã khẳng định các tín hữu theo đạo Thiên Chúa, đạo của mọi quốc gia chứ không phải đạo Phú Lãng Sa (12). Đến thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786), trong cuộc tranh luận bốn tôn giáo, được ghi lại trong cuốn Hội Đồng Tứ Giáo (Tân Định, 1959, tr. 4-6), các linh mục Công giáo đã trả lời vấn nạn “Đạo Hoa Lang là đạo ngoại quốc” rằng: “Chớ gì đạo Phật chẳng từ Ấn độ, đạo Nho từ nước Lỗ, còn đạo Lão chẳng từ đời nhà Châu ở Trung Hoa sao? và đã khẳng định: “Chẳng có đạo nào là đạo Hoa Lang. Đạo chúng tôi là đạo Thiên Chúa, chúng tôi ước ao thiên hạ mọi nước đều biết”. Linh mục Vũ bá Loan trình bày điều đó với quan: “Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân thôi”. Cũng vì vậy khi quân đội Pháp tiến vào Đà Nẳng năm 1858, giới Công giáo không hề làm nội ứng như thừa sai Pellerin tưởng (13). Ngược lại, họ tình nguyện đi bảo vệ non sông. Có điều vua Tự Đức đòi họ muốn tham chiến phải bỏ đạo trước đã. Tháng 7.1857, có mười bốn binh sĩ, một bỏ đạo, mười ba bị lưu đày. Tháng 4.1858, trong nhóm hai mươi binh sĩ, bốn bỏ đạo, mười sáu bị lưu đày. Và khi tàu Pháp đến, một trăm chín mươi ba binh sĩ Công giáo chuẩn bị lên đường xuống Đà Nẵng, vì không chối đạo đã lãnh án chung thân. Một vị tử đạo thời này là binh sĩ Phanxicô Trần văn Trung, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ (14). Mặn Nồng Tình Nghĩa Gia Đình Một trong những đóng góp của giới Công giáo vào cơ chế pháp lý gia đình Việt Nam, là luật lệ một vợ một chồng. Trong giai đoạn văn hóa quá ảnh hưởng quan điểm Nho giáo “trai năm thê bảy thiếp”, các tín hữu đã góp phần đề cao đạo đức thủy chung của dân tộc trong truyện trầu cau. Dĩ nhiên không phải mọi tín hữu đều trung thành với lời cam kết hôn nhân, như ông Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ đình Hy... đã có thời gian sa ngã, thế nhưng tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình. Trong danh sách 117, trừ một số theo đạo khi đã trưởng thành, còn những ai sinh ra trong gia đình Công giáo đều được rửa tội và giáo dục đức tin ngay từ bé. Thầy Đaminh Úy từng mạnh dạn tuyên bố, giữ vững niềm tin là giữ đạo cha ông: “Nếu tôi cả gan bước lên thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với mẹ cha. Vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết”. Nói chung các vị tử đạo khi bị bắt không thoát khỏi tình cảm quyến luyến với người thân, có điều các vị chọn lựa Thiên Chúa và tin tưởng phó thác người thân cho Ngài. Nhiều vị đang bị giam được về thăm gia đình, đã bình tĩnh khuyên vợ con vui vẻ cho mình chịu tử đạo, rồi tự động trở vào tù như các ông Dũng, Thuần, Ngôn, Năm Thường... Ta có thể biết điều đó trong vài di ngôn cuối cùng sau: Ông Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”. Y sĩ Phan đắc Hòa thì nói: “Cha yêu thương các con và hằng chăm sóc các con, nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, yêu thương nhau và săn sóc việc nhà...”. Nói đến tình nghĩa gia đình, chúng ta khó có thể quên một số hình ảnh như: Linh mục Triệu vì thương mẹ già ở lại Huế ba tháng dựng nhà cho mẹ, nên mới bị bắt. Ông đội Trung có con gái được phép ở trong tù chăm sóc, nhưng ông bắt con về nhà để kịp học giáo lý với bạn bè trong xứ. Ông trùm Phụng tại pháp trường gặp lại con gái, cô Anna Nhiên, đã đeo cho con ảnh Thánh giá ở cổ mình và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”. Nếu nói đến gia đình tử đạo phải kể: anh em có Anrê Tường — Vinh Sơn Tưởng; cha con có Án Khảm — Cai Thìn; con rể bố vợ có Lý Mỹ — Trùm Đích. Ông Lý Mỹ vì thấy nhạc phụ đã cao niên, mỗi cuộc tra tấn đều tự nguyện chịu đòn hai lần thay thế cho cha. Con gái ông Lý mười hai tuổi, trốn mẹ vào tù thăm và thưa: “Xin cha can đảm chịu chết vì Chúa”. Cậu Tường chín tuổi, con trai ông không đi được, cũng nhắn lời: “Cha đừng lo cho chúng con, cha cứ an tâm vững lòng xưng đạo và chịu chết vì đạo”. Vợ ông, bà Mỹ nói trong tiếng nghẹn ngào: “Vợ con ai mà chẳng thương tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác thánh giá rất nặng vì Chúa. Hãy trung thành đến cùng, đừng lo nghĩ đến mẹ con tôi! Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả”. Như thế, ta thấy những thân nhân của các vị tử đạo, tuy vẫn tiếc thương, vẫn buồn khóc, nhưng cũng can đảm và tin tưởng yểm trợ tinh thần cho các chứng nhân. Chúng ta quan tâm đặc biệt đến hình ảnh một số bà mẹ: Bà mẹ của Jaccard Phan, khi nghe tin con chịu chết vì đức tin đã reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo”. Bà nói tiếp: “Xin chúc tụng Chúa, tôi sẽ buồn biết bao, nếu con tôi chịu khuất phục trước gian khổ và cực hình”. Bà mẹ Castaneda Gia, khi em trai vị linh mục đang tìm cách báo tin sao cho khéo để mẹ bớt buồn. Bà hỏi: “Tại sao Jacintô của mẹ lại chết? Anh ấy chết bệnh hay bị giết?”. Cậu Clêmentê hỏi lại: “Vậy mẹ muốn anh ấy chết cách nào?”. Bà đáp: “Mẹ mong rằng Jacintô chết vì đức tin”. Clêmentê liền nói: “Vâng thưa mẹ, chính vì đức tin mà anh ấy bị giết”. Ngay chiều hôm đó, bà liền đến nhà thờ dòng Đaminh để cùng với các tu sĩ hát lên lời kinh Tạ ơn TE DEUM. Bà Maria Nhiệm, thân mẫu Thánh Gẫm, năm 1870, tức là hai mươi ba năm sau cuộc tử đạo của con trai, đã đến làm chứng tại tòa án phong Chân Phước. Bà nói: “Khi nghe tin con bị giết, vợ chồng chúng tôi không thảm thiết gì hết, chỉ nói: Chết như vậy đặng làm thánh”. Nhưng hình ảnh nổi bật nhất là bà mẹ binh sĩ Anrê Trông, được Đức Lêo XIII trong sắc phong Chân Phước năm 1900 ca tụng về lòng can trường, đã theo gương “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”. Bà có mặt trong cuộc hành quyết để dâng hiến người con trai duy nhất. Bà đi cạnh con, không than khóc, không sầu buồn, lại bình tĩnh khuyên con bền chí. Và khi đầu vị tử đạo rơi xuống, bà mạnh dạn tiến vào pháp trường và nói với quan: “Đây là con tôi, xin các ông trả lại cái đầu nó cho tôi”. Rồi bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp của người con yêu quý, đem về an táng ngay trong nhà. | |
Trang chủ | Trang các Thánh |