Hạnh Các Thánh


Ngày 29 tháng 6

THÁNH PHÊRÔ và THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ

1) THÁNH PHÊRÔ

Thánh Phêrô thực danh Simon, là anh thánh Anrê. Cả hai là con trai ông Giona, một ngư phủ lương thiện cư ngụ tại làng Bétsaiđa ở về phía bắc hồ Tibêria xứ Galilêa. Khi còn nhỏ, hai anh em đã theo học tại trường làng và đã trưởng thành trong khuôn khổ giáo dục nghiêm nhặt của đạo cũ Do thái. Là con trai trong gia đình kém phần sung túc, hai anh em đã sớm phải phụ giúp cha trong nghề chài lưới và kiếm ăn nuôi sống bằng nghề đó.

Đến tuổi trưởng thành, Phêrô kết bạn và tới sinh cơ lập nghiệp tại một ấp nhỏ gần Caphanaum. Ở đây ngài có sinh hạ được quý tử nào hay không, điều đó chúng ta không được rõ.

Phêrô đang sống an vui dưới mái nhà êm ấm thì bỗng một sự kiện xảy tới làm chuyển hướng cuộc đời của Phêrô. Năm 28, thánh Gioan Tẩy giả xuất thân rao giảng về Đấng Cứu Thế và làm phép rửa trên bờ sông Giođanô. Có rất đông những người xứ Galilêa đến nghe ngài giảng và chịu phép rửa. Trong số đó cũng có nhiều người thiện chí theo làm môn đệ ngài như thánh Anrê và Gioan. Ngày kia, đang đứng với hai môn đệ trên, thánh Gioan thấy Chúa Giêsu đi qua, ngài liền chỉ cho môn đệ mình biết: đó là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu tinh nhân loại. Nghe nói vậy, hai môn đệ liền xin phép thầy để theo Chúa Giêsu. Hôm sau, Anrê về nhà khoe với anh: mình đã được thấy Đấng thiên sai và kể lại cho anh nghe câu chuyện gặp gỡ với Chúa Giêsu, rồi dẫn ông Simon đến trình diện với Chúa Giêsu... Như thấy rõ tất cả lòng chân thật, nhiệt thành và hăng hái trong khóe mắt của Phêrô, Chúa nhìn ông và nói: “Hỡi Simon con ông Giona, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là đá” (Ga. 1,40-42).

Sự đổi tên như thế, theo tục lệ Do thái luôn ngụ một ý quan trọng. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên Simon là Kêpha hay Phêrô có nghĩa là Đá, ngụ ý sau này Người sẽ đặt ông làm nền tảng để xây dựng Giáo hội của Chúa.

Nghe lời Chúa phán, Phêrô ngẩn người ra tỏ vẻ không hiểu gì. Nhưng hình như có một sức linh thiêng lôi cuốn, Phêrô liền theo Chúa.

Tuy đã nhiều lần theo Chúa đi truyền đạo, đã nghe những giáo huấn khôn ngoan của Chúa, nhưng có lẽ đây chưa phải là lúc rắp tâm theo Chúa hẳn, nên Phêrô cũng như mấy môn đệ đầu tiên khác nhiều lần đã tạm biệt Cháu, về quê quán làm ăn. Phải đợi cho đến khi được mục kích nhiều phép lạ và được Chúa chính thức kêu gọi, lúc đó Phêrô mới thực tâm bỏ mọi sự mà theo Thầy. Theo lời tường thuật của các thánh ký, lần kêu gọi đó xảy ra như sau:

Một hôm, Chúa Giêsu đang đứng trên bờ hồ Tibêria, và dân chúng xúm quanh Người rất đông để nghe Người giảng dạy. Thấy có hai chiếc thuyền đậu gần bờ, Chúa Giêsu liền xuống ngồi trên một thuyền mà chủ nhân là ông Simon. Người bảo ông chở ra xa một chút rồi ngồi đó mà giảng cho dân chúng. Giảng xong, Người bảo ông chèo thuyền ra khơi đánh cá. Ông và các bạn thuyền tỏ vẻ ái ngại, vì suốt đêm vừa rồi vất vả mà không được gì. Nhưng để chiều ý Chúa, các ông chèo thuyền ra khơi và tung chài thả lưới. Một việc lạ lùng làm cho các ông hết sức kinh ngạc: lưới vừa thả mà không sao kéo lên được vì nặng trĩu những cá. Simon phải gọi các bạn thuyền gần đó lại kéo hộ. Lưới kéo lên, mọi người đều loà mắt vì cá nằm trắng xoá trong lưới, chen chúc nhau làm lưới gần thủng. Người ta đổ ra được hai thuyền đầy. Sự lạ lùng này đã làm cho Simon sợ hãi. Ông đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, xưng mình là kẻ có tội không đáng ở trước mặt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã ủy lạo và nói với ông một câu tỏ ý định xa xăm của Người đối với ông: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài người”. Thế rồi Chúa Giêsu đã gọi hai anh em Simon và cả hai ông Giêbêđê theo làm tông đồ chính thức của Người. Từ đó Phêrô mới bỏ mọi sự, theo Chúa và không bao giờ về nhà nữa.

Là một con người thuyền chài chất phác, Phêrô đã theo Chúa với tất cả tâm tình đơn sơ, thành thật và tin tưởng. Chúa Giêsu hiểu rõ tâm tính và lòng nhiệt thành hăng hái của Phêrô. Bằng những lời giảng dạy, khuyên bảo và phép lạ, Chúa đã dần dần huấn luyện cho Phêrô có một lòng tin yêu mạnh mẽ, một đức tính cần thiết của một vị chúa chiên, một người làm thủ lĩnh. Tất cả những trang Phúc âm còn ghi lại đều nói lên sự ân cần chăm sóc của Chúa và đồng thời tỏ cho ta thấy rõ tâm tình đơn sơ chất phác nhưng đầy nhiệt thành hăng hái của Phêrô.

Lần kia, sau phép lạ hóa bánh, Chúa truyền cho các tông đồ chèo thuyền ra khơi. Thình lình gió thổi mạnh, sóng nổi lên dữ dội, các tông đồ dùng hết sức lực để chèo thuyền vào bến; nhưng vô hiệu quả, mặc dầu đêm đã về khuya. Lúc ấy Chúa lướt trên làn nước đến với các ông. Tưởng là ma quái, các ông run sợ, la lối. Chúa Giêsu liền bảo các ông: “Hãy yên tâm, Thầy đây, các con đừng sợ”. Sung sướng quá đến không kịp suy nghĩ, Phêrô thưa với Chúa: “Lạy Thầy, nếu thực phải Thầy, xin truyền cho lệnh cho con đi trên nước đến với Thầy”. Chúa đáp: “Lại đây”. Phêrô nhảy ùm xuống nước, nhưng vì lòng còn nghi nan e sợ, ông bắt đầu chìm dần. Phêrô vội kêu cứu: “Lạy Thầy, xin cứu con với”. Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy Phêrô và bảo: “Ngươi ít lòng tin quá, sao lại nghi nan?”

Quả Phêrô là con người đầy cảm tình hăng hái, nhiều ước nguyện thánh thiện nhưng lại yếu đuối. Những câu truyện sau đây nói lên một phần nào bản tính mâu thuẫn ấy của thánh nhân.

Một hôm, sau khi giảng về Bánh Hằng sống ám chỉ phép Thánh Thể Người sẽ thiết lập, Chúa Giêsu thấy nhiều môn đệ bỏ ra về vì không chịu được những lời mà họ cho là chói tai. Chỉ còn lại mình Chúa với các tông đồ, Chúa quay lại thân mật hỏi các ông: “Còn các con nữa, các con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Cũng với lòng quảng đại và trung tín, Phêrô thưa Chúa: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Chỉ Thầy mới có lời hằng sống. Chúng con tin nhận Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Lần khác, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói gì về Con người?—“Thưa Thầy, có người bảo Thầy là Gioan Tẩy giả, người khác lại nói Thầy là Êlia, là Giêrêmia hay là tiên tri nào đó”. –“Vậy còn chúng con, chúng con bảo Thầy là ai?” –Nhanh miệng nhất, Phêrô thưa trước các môn đệ khác: “Thưa Thầy, Thầy là Đấng Cứu tinh Con Thiên Chúa hằng sống”.

Quả không bao giờ Thiên tính Thiên sai lại được xác quyết một cách rõ rệt như thế. Nhân lòng tin của Phêrô, Chúa khen ngài: “Hỡi Simon, con ông Giona, con có phúc bởi vì không phải huyết nhục đã mặc khải cho con điều đó, nhưng chính Cha Thầy ở trên trời”. Rồi Chúa ban lời hứa, được coi như phần thưởng cao quý nhất cho vị tông đồ: “Còn Thầy, Thầy bảo với con: Con là đá, và trên đá này Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và quyền lực hỏa ngục sẽ không làm gì nổi. Thầy sẽ ban cho con chìa khóa nước trời: Điều gì con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng sẽ cầm buộc, điều gì con cởi mở dưới đất thì trên cũng sẽ cởi mở” (Mt 16,13-19).

Nhưng cũng vì lòng đơn thành, đôi khi kém hiểu biết, Phêrô đã nhiều lần bị Thầy quở mắng. Lần kia, Chúa báo trước cuộc khổ nạn của Người sẽ chịu, Phêrô liền kéo Chúa ra một bên và can Người rằng: “Đừng, Thầy ạ, Thầy đừng có chịu như vậy”. – Chúa quay lại quở Phêrô: “Hãy lui lại đằng sau! Con làm dịp vấp phạm cho Thầy, vì con không am hiểu những việc Chúa Cha, chỉ biết những việc loài người” (Mt. 16,22-23).

Mấy hôm sau, Chúa Giêsu đem Phêrô và Gioan lên núi Tabor. Tại đây Người biến hình và đàm đạo với Êlia và Moisen. Phêrô rất vui mừng nhìn thấy sự việc xảy ra. Vì thế, khi Êlia và Moisen vừa biến đi, Phêrô đã thưa với Chúa: “Lạy Thầy, ở đây tốt quá. Nếu Thầy muốn, con sẽ làm ba lều, một cho Thầy, một cho Moisen và một cho Êlia”. Lập tức có đám mây bao phủ và tiếng trên trời phán: “Đây là con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta mọi đàng; các ngươi hãy nghe lời Người”. Nghe tiếng ấy, các môn đệ ngã sấp mặt xuống đất và sợ hãi. Nhưng Chúa Giêsu lại gần đụng vào các ông và nói: “Hãy đứng dậy, đừng sợ” (Mt. 17,1-8). Thánh Phêrô ghi sâu trong tâm trí kỷ niệm này!

Cũng vì tính đơn thành, Phêrô không ngần ngại xin Chúa Giêsu cắt nghĩa cho những lời chưa hiểu, hay nài hỏi Chúa những điều thắc mắc. Tiêu biểu nhất là lần nghe Chúa nói: “Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước trời”. Phêrô đã thưa ngay với Chúa rằng: “Còn chúng con, chúng con bỏ hết mọi sự để theo Thầy, chúng con sẽ được gì?” Rồi, khi Chúa rửa chân cho các tông đồ, Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, Thầy mà rửa chân cho con sao?” - Chúa đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con không hiểu, nhưng sau con sẽ hiểu” - Phêrô thưa lại: “Không, không đời nào Thầy lại rửa chân cho con” – Chúa Giêsu bảo: “Nếu con không để Thầy rửa chân cho, con sẽ chẳng được nghĩa cùng Thầy”—Hoảng hốt, Phêrô thưa: “Nếu vậy thì lạy Thầy, chẳng những rửa chân, mà còn cả tay và đầu con nữa!”. Quả không gì thành thực hơn! Thành thực đến quên những sự yếu đuối của mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ tâm tình Phêrô. Vì thế khi Phêrô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, con sẵn sàng đi với Thầy, dù chịu tù ngục hay đến chết cũng vậy”. Chúa bảo ông: “Này Phêrô, Thầy bảo con hay, hôm nay gà chưa gáy con đã chối Thầy ba lần rồi”. Lời tiên báo này đã được thực hiện từng chữ ngay đêm hôm ấy. Phêrô đã nhát sợ đến nỗi chối Thầy trước mặt đứa nữ tì và tên lính lệ của vị trưởng tế! Nhưng với lòng nhiệt thành đơn thật và lòng thống hối tha thiết, Phêrô đã đáng được Chúa nhìn lại và tha thứ.

Sau ngày sống lại, Chúa đã hiện ra nhiều lần, nhưng không phải hết mọi người đều được vinh dự xem thấy Người sống lại. Danh dự và hạnh phúc đó, Chúa dành riêng cho các tông đồ và những người được Chúa yêu thương (Cv 10,41). Phêrô hẳn phải được Chúa dành cho ơn ấy cách đặc biệt. Lần kia, Chúa Giêsu hiện ra trên bờ hồ Tibêria. Trong lần này Chúa ban cho Phêrô được quyền tuyệt đối trong Giáo hội và nói tiên tri về đời sống của Ngài. Trước tiên Chúa hỏi Phêrô ba lần: “Simon con Giona, con có mến Thầy không?” - Cương quyết, thánh nhân trả lời: “Lạy Thầy, Thầy biết con mến Thầy”. Rồi Chúa ban quyền cho ngài: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Ta”. Tiếp đó, Chúa còn cho thánh Phêrô biết ngài sẽ phải chết thế nào: “Thật, Thầy bảo thật cho con biết, khi còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và muốn đi đâu tùy ý, nhưng khi đã về già, con sẽ giang tay ra và kẻ khác sẽ thắt lưng cho con, và dẫn con đến nơi con không muốn” (Ga. 21,1-18).

Từ đây Phêrô lãnh sứ mệnh hướng dẫn cộng đồng các tông đồ, những phần tử đầu tiên của Giáo hội. Chính ngài đã xin ơn Chúa chọn thánh Matthia thế chân Giuđa. Dưới quyền bảo trợ của Đức Mẹ, thánh Phêrô điều khiển Giáo hội mong đợi Đấng An ủi đến. Khi đã nhận Thánh Linh rồi, thánh Phêrô can trường đi rao giảng cho chính những người mới thù ghét và xử tử Thầy Chí Thánh. Ngài đáng được danh hiệu là “tông đồ dân Do thái” nhờ những phép lạ và lời rao giảng. Ngài không ban cho họ vàng bạc, nhưng ban đức tin nhân danh Chúa Giêsu Nazareth. Ngay hôm đầu tiên trên đường truyền giáo, sau bài giảng khai mạc, thánh Phêrô đã tiếp nhận hơn ba ngàn người gia nhập Giáo hội. Không úp mở sợ sệt, ngài bảo người Do thái, những người còn e dè trước sự kiêu căng của bọn Biệt phái: “Anh em hãy vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người thế gian” (Cv 4,9). Nhiều lần, thánh Phêrô buộc lòng phải phạt thẳng nhặt những người tà tâm, lấy sự gian dối che đậy lòng tham, và xoá nhoà tinh thần bác ái. Đó là trường hợp hai vợ chồng Anania và Saphira lừa dối Chúa Thánh Thần, biển lận tiền bán ruộng, đã bị thánh nhân quở phạt ngã lăn ra chết tại chỗ (Cv 4,1-11).

Những hoạt động, nhất là những phép lạ và những kết quả thu được của thánh Phêrô khiến bọn Biệt phái và Sa đốc tức tối. Họ tìm cách bắt giam thánh nhân. Lần đầu tiên thánh Phêrô bị bắt và bị tống ngục cùng với thánh Gioan vì đã rao giảng Chúa Kitô sống lại. Sau một đêm trong ngục, thánh nhân được dẫn đến khai cung, hay nói đúng hơn là “xưng đức tin” trước mặt các thầy tư tế Anna, Caipha và các viên kỳ mục. Nhờ ơn Thánh Linh, thánh Phêrô đã giảng một bài rất hùng hồn, đến nỗi sau cùng bọn người đội danh là “quan án” phải trả lại tự do cho ngài. Lần thứ hai, thánh nhân bị bắt giam chỉ vì bọn Biệt phái ghen tức những phép lạ ngài đã làm để chữa các người mù, què, phong hủi, câm điếc... Nhưng ban đêm sứ thần Chúa đến cởi xích và mở ngục cho ngài ra và khích lệ ngài cứ can đảm vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng (Cv 5,20). Vâng lệnh sứ thần, ngay tảng sáng hôm sau, thánh Phêrô đã lớn tiếng rao giảng. Và ngài tiếp tục đem Tin Mừng đến mọi miền xứ Palestina...

Quãng năm 42 hay 44, thánh Phêrô mới trở về Giêrusalem vào tuần phục sinh. Vốn thù ghét các tông đồ Chúa Kitô, vua Hêrôđê Agrippa được tin, sai lính bắt giam ngài vào ngục thất. Nhưng đến đêm, ánh sáng tự trời chiếu xuống, các xiềng xích mở ra và thánh nhân được cứu thoát cách lạ.

Sau đó, ngài cùng với các tông đồ đi giảng Tin Mừng cho dân ngoại ở các miền Antiôkia và Tiểu Á. Theo nhiều tác giả cổ thời, thì năm 46 thánh Phêrô tới Rôma lần đầu tiên.

Năm 49 ngài trở về Giêrusalem dự công đồng các tông đồ bàn về “việc có nên bắt các lương dân trở lại đạo cắt bì theo luật Moisen hay không”. Đồng ý kiến với thánh Giacôbê bấy giờ chủ tọa công đồng, thánh Phêrô đã đọc bài diễn văn rất hùng hồn để khai mạc. Thánh Banabê, thánh Phaolô và các vị đại diện Giáo đoàn Antiôkia hoan nghênh nhiệt liệt bài diễn văn này.

Sau công đồng, thánh Phêrô lại lên đường giảng đạo. Ngài qua Antiôkia, đến Côrintô là trung tâm của đế quốc Rôma bấy giờ. Theo Đức Giám mục Đêni đầu thế kỷ thứ II, thì chính thánh Phêrô và thánh Phaolô đã thiết lập giáo đoàn Côrintô.

Quãng năm 57, thánh Phêrô tới Rôma lần thứ hai. Đi theo ngài có thánh Mátcô, tác giả Phúc âm thứ hai. Trong kỳ này, thánh nhân viết thư, một gửi cho giáo hữu miền Tiểu Á, khuyên họ ăn ở thánh thiện và can trường chịu mọi cơn bách hại, đồng thời chỉ định cho họ những việc thực hành đạo đức và thể hiện đức tin. Thư thứ hai cũng viết cho các giáo đoàn vùng Tiểu Á, với mục đích ca ngợi sự thánh thiện và kêu gọi giáo dân tỉnh thức trước mọi tà giáo cùng can đảm chịu mọi thử thách để lập công.

Tại Rôma, thánh Phêrô bị bắt và tống giam dưới triều Hoàng đế Nêrô (54-68). Theo một tương truyền không được chắc chắn, thì thánh nhân bị giam trong đề lao Mamertina, một đề lao dành riêng cho các lãnh tụ chính trị đối lập! Hiện nay một nhà thờ được cất lên tại đây mang tên là “Nhà thờ thánh Phêrô trong tù”.

Có lẽ không một văn kiện nào kể lại đích xác cuộc tử nạn của thánh Phêrô. Vì thế, cho dù có rất nhiều tương truyền, trên bình diện lịch sử, chúng ta vẫn chưa có một văn bản nào chắc chắn. Hầu hết các tương truyền đều làm chứng thánh Phêrô bị đóng đinh ngược trên thập giá. Các sử gia hữu danh như Tertulianô, Ôrigiênê cũng đều công nhận như thế.

Thánh Phêrô đã bước vào một thế giới linh thiêng, không còn hiện diện ở trần thế nữa. Nhưng dạ chân thành, lòng tin sắt đá và đức trung kiên của ngài vẫn còn tồn tại muôn đời trong Giáo hội và hằng diễn ra trước mắt chúng ta. Đó là những bức gương sáng ngời soi lối cho chúng ta trên con đường tìm chân lý tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Nếu biết noi theo ngài, chúng ta sẽ chắc chắn tới đích. Thực thế, muốn tìm thấy Chúa và theo Chúa, chúng ta phải có một tấm lòng đơn sơ chân thành như thánh Phêrô để đón nhận những chân lý do Chúa mặc khải. Thánh Phêrô xưa, nhờ tấm lòng đơn sơ chân thành ấy, đã được Chúa chọn, gọi ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên. Chúng ta còn phải có một đức tin mạnh mẽ như ngài để tiếp nhận những mầu nhiệm cao siêu, vượt tầm trí năng con người. Một khi đã theo và tin nhận Chúa, thánh Phêrô đã biểu lộ đức tin hùng dũng đến nỗi có lúc như mê say, điên cuồng. Nhưng vì đức tin điên cuồng đó mà Chúa đã đặt ngài làm thủ lãnh Giáo hội của Người ở trần gian này. Sau hết ta cần phải có một lòng can đảm, trung tín mới hi vọng theo Chúa đến cùng được, vì đường của Chúa là đường đau khổ, nhưng lại đưa ta đến hạnh phúc trường sinh.

2) THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ

(+67)

Đọc lịch sử Giáo hội, chúng ta không tìm thấy một vị thánh nào khả dĩ so sánh với thánh Phaolô tông đồ. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính thánh nhân đã hơn một lần xác nhận điều đó trong khi ngài nói: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Giêsu Kitô” (1Cr.4,16). Chính Giáo hội, Mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một địa vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hằng ngày trong thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự của thánh Phaolô tông đồ.

Hôm nay nhân ngày lễ kính thánh nhân, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại một cách sơ lược đời sống phong phú đầy hấp dẫn của ngài, để rồi cố gắng diễn lại một phần nào trong đời sống của mỗi người chúng ta, những nhân đức thánh thiện và lòng mến Chúa nồng nhiệt của một vị anh hùng, đã biết hoàn toàn xả kỷ hy sinh vì tha nhân mà không muốn phần thưởng nào khác hơn là làm cho Chúa Giêsu Kitô tái sinh trong các linh hồn (1Cr 4,15).

Thánh Phaolô chào đời vào đầu kỷ nguyên mới tại thành Tarsê. Song thân thánh nhân là người Do thái nhưng đã gia nhập quốc tịch Rôma. Sinh được tám ngày, hai ông bà đem con đi chịu phép cắt bì và đặt tên là Saulô, để kính nhớ Saulô, một vị đế vương thuộc chi họ Benjamin. Khi lên sáu tuổi, Saulô bắt đầu theo học tại trường làng. Nơi đây Saulô hấp thụ một nền giáo dục thuần túy Do thái. Nhà trường chuyên dạy các tục lệ cổ truyền Do thái và nhất là Thánh kinh. Khi lớn lên, song song với việc cắp sách đến trường, Saulô còn chuyên học tập nghề dệt dạ, nhưng không phải vì kế sinh nhai, vì cha mẹ Saulô rất giầu có. Saulô học nghề là theo phong tục cổ truyền, bất cứ người Do thái nào muốn gia nhập giai cấp thông giáo đều phải biết qua một nghề nghiệp.

Lên 13,14 tuổi Saulô được song thân gửi về thủ đô Giêrusalem theo học trường của thầy thông giáo Gamaliel. Dưới quyền chỉ huy của thầy, Saulô vùi đầu vào Thánh kinh để học hỏi, truy tầm, nghiên cứu hầu tạo cho mình một căn bản giáo dục vững chắc về tôn giáo và luân lý.

Khi học mãn khóa, Saulô nghiễm nhiên trở thành một thầy thông giáo lỗi lạc, một Pharisiêu thực thụ. Với hai tước hiệu đó, Saulô sung sướng trở về Tarsê phụng dưỡng cha mẹ già để đền ơn đáp nghĩa sinh thành.

Sau một thời gian dài lưu trú tại Tarsê. Nhưng với những đức tính đặc biệt, với chí hiên ngang, Saulô nóng lòng muốn trở lại Giêrusalem để thi hành sứ mệnh truyền bá tôn giáo mà ngài vẫn ôm ấp từ lâu. Saulô trở lại Giêrusalem nhằm lúc Do thái giáo đang truy tầm gắt gao các kitô hữu. Vì thiện chí và mến đạo cổ truyền, Saulô tình nguyện tiếp tay bách hại các kitô hữu. Nạn nhân tiên khởi của cuộc bách hại này là thầy phó tế Têphanô. Chính Saulô cũng tham dự vụ hành quyết này. Chàng thanh niên giữ áo cho bọn người ném đá Têphanô mà thánh sử Luca nói đế trong Công vụ tông đồ chính là Saulô. Sau này Saulô đã thẳng thắn tường thuật câu truyện hành quyết đẫm máu đó và tỏ ra hết sức phàn nàn.

Sau cuộc tuẫn giáo Têphanô, Saulô cảm thấy mình càng khát máu môn đồ Chúa Giêsu Nazareth, ngài tình nguyện xin làm chân tay Caipha lên đường đi Đamát để hãm hại bọn “giáo gian” cho thoả lòng. Với đoàn tùy tùng đông đảo, Saulô hiên ngang, ngạo nghễ trên lưng ngựa, qua cửa Đamát xuống cánh đồng phì nhiêu của xứ Samaria, lúa chín vàng, xông lên mùi thơm mát. Sau sáu bảy ngày vất vả trên đi đường, tường thành Đamát hiện ra trước mặt Saulô và đoàn tùy tùng. Khi ấy là nửa buổi. Mặt trời chiếu ánh nắng nồng nực bức sốt... Saulô và đoàn tùy tùng như những chiến sĩ thi đua chạy trên quãng đường còn lại để dành thắng lợi cho mình. Bỗng chốc, một ánh sáng từ trời cao giãi xuống bao phủ Saulô, quật ngã ngài xuống đất, đồng thời từ trong ánh sáng đó có tiếng phán bảo. Chúng ta hãy nghe chính Saulô thuật lại câu truyện huyền bí này:

“Trưa hôm ấy, khi tôi đi đến gần Đamát, bỗng chốc có một luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ tôi tứ bề, tôi ngã xuống đất, đồng thời nghe thấy tiếng hỏi: Hỡi Saulô, Saulô, sao mi bắt bớ Ta? Tôi thưa lại: Ông là ai? Tiếng nói trả lời: Ta là Giêsu Nazareth mi đang tầm nã bắt bớ. Những người trong đoàn tùy tùng của tôi tuy có trông thấy ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng ai nói với tôi. Tôi hỏi tiếp: Lạy Chúa, con phải làm bây giờ? Chúa phán: Con hãy chỗi dậy vào thành Đamát, ở đó có kẻ sẽ cho con biết tất cả những việc phải làm. Ánh sáng đã làm cho mắt tôi mù không trông thấy gì. Một người trong đoàn tuy tùng dắt tôi vào thành Đamát. Khi ấy có ông Anania, một nhân vật được toàn thể đồng bào Do thái mến phục, đến bên tôi mà nói: Anh Saulô, hãy mở mắt ra mà xem. Tôi mở mắt ra và trông thấy được. Ông liền nói với tôi rằng: Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã tiền định cho anh nhìn nhận thánh ý Người, được trông thấy Đấng công chính và nghe lời Người phán dạy; giờ đây anh còn trì hoãn chi nữa. Hãy chỗi dậy và chịu phép rửa tôi, tẩy rửa các tội lỗi anh đã phạm và kêu cầu danh thánh Chúa” (Cv 22).

Sau khi được ơn trở lại, Saulô thẳng đường sang Ả Rập tĩnh tâm đủ ba năm. Nơi đây Saulô tập sống nội tâm, thu toàn lực nghiền ngẫm tất cả chân lý mà ngày mai đây ngài phải đảm nhận việc truyền bá, cắt nghĩa một cách cực kỳ thâm thúy. Ngoài ra, ngài còn phải ăn chay, hãm mình để phạt tạ đời sống dĩ vãng, nhất là cuộc đổ máu Têphanô vô tội, và sự bách hại dã man những người mà từ nay trở đi ngài gọi là “các thánh”. Sau non ba năm sống trong im lặng, Saulô đã hoàn toàn biến đổi, ngài đã cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Saulô lúc này đã trở nên người của Thiên Chúa, sẵn sàng làm bất cứ việc gì Chúa truyền làm. Ngài sẽ nhân danh Thiên Chúa truyền bá Phúc âm cho dân ngoại. Ngài bỏ rừng Ả Rập trở về Đamát. Lúc này ngài cảm thấy một áp lực mạnh mẽ, nhưng êm dịu thúc bách ngài truyền bá Phúc âm.

Vừa đặt chân tới thành Đamát, Saulô trọ tại nhà Giuđa, ngày ngày lui tới hội đường Do thái tranh luận với những người Biệt phái để minh chứng Chúa Giêsu quê thành Nazareth là Đấng Cứu Thế.

Biết rõ không thể cãi lại được với con người cương quyết, hăng hái và rất sáng suốt, bọn Biệt phái nghĩ chỉ còn cách dở thủ đoạn đẫm máu mới mong tiêu diệt được Saulô. Đêm ngày họ canh phòng cẩn một... Nhưng vỏ quýt dầy có móng tay nhọn. Theo kế hoạch đã định sẵn, anh em kitô hữu bí mật dẫn Saulô tới nhà một kitô hữu khác; nhà này được xây sát với tường thành, có cửa sổ quay ra cánh đồng. Khi tới nơi, Saulô ngồi thu mình trong thúng treo ngoài cửa sổ, một số người ở trong thả dây xuống. Sau khi trốn thoát, Saulô thẳng đường về Giêrusalem trình diện với vị thủ lãnh Giáo hội là thánh Phêrô. Tại đây ngài đề nghị với vị thủ lãnh giáo hội cử một phái đoàn đi truyền giáo tại các miền phụ cận. Lời đề nghị đó được toàn thể chấp thuận và tổ chức cuộc bỏ thăm để bầu những nhân vật lãnh trách nhiệm đầu tiên. Trước khi thi hành, các ngài ăn chay, cầu nguyện xin ơn trên soi sáng. Bỗng chốc ai nấy đều nghe thấy tiếng Chúa Thánh Thần phán rõ ràng: “Hãy tách biệt Saulô và Barnabê ra để thi hành công tác đã dự định”. Vừa khi biết rõ Thánh ý, Saulô và Barnabê đứng lên trình diện với các tông đồ. Cuộc tấn phong được cử hành bằng lễ nghi đặt tay trên đầu hai vị tân thừa sai, đoạn ủy thác việc truyền giáo cho dân ngoại.

Lấy tư cách là trưởng phái đoàn, Barnabê đề nghị đến truyền giáo tại đảo Chyprô. Thế là từ giây phút ấy, đảo Chyprô trở nên đích điểm cuộc thám hiểm truyền giáo của Saulô, Barnabê và Gioan. Các ngài rao giảng Phúc âm khắp đảo cho tới Paphô. Tại đây các ngài gặp một người Do thái làm phù thủy tên là Bar Giêsu, người thân cận của quan tổng trấn Sêrgiô Paulô. Quan cho mời hai ông Barnabê và Saulô đến và ngỏ ý muốn nghe lời Thiên Chúa. Nhưng các ngài bị tên Bar Giêsu tìm hết cách không để quan tổng trấn theo đạo. Bấy giờ Saulô trừng trừng nhìn hắn và bảo:

“Hỡi con người gian ngoa, quỷ quyệt, con đẻ của ma quỷ, địch thủ của công chính, bao giờ mày mới thôi không phá hoại chính lộ của Thiên Chúa? Giờ đây đây Thiên Chúa đang đè nặng trên đầu mày! Mày sẽ phải tối mắt không được xem thấy ánh sáng trong một thời gian”.

Saulô chưa nói dứt lời, thì Bar Giêsu đã thấy mình mù, hắn dơ tay quờ quạng xin kẻ khác dắt ra ngoài, để tránh một địch thủ lợi hại. Sự mù của hắn đã làm cho nhà cầm quyền Rôma sáng mắt thiêng liêng, nhìn nhận chân lý và tin theo. Đây là thắng lợi rõ rệt Saulô đã thu lượm trong mặt trận truyền giáo. Để đánh dấu bước đường truyền giáo hứa hẹn nhiều thành quả tốt đẹp, Saulô từ nay đổi tên là Phaolô. Một danh hiệu mỹ miều biết bao! Danh hiệu mà ngàn đời sẽ còn được nghi trong sử xanh Giáo hội và ngàn đời được ghi khắc trong tâm khảm của biết bao tâm hồn mộ mến tôn sùng ngài.

Càng lúc Phaolô càng say mê công cuộc truyền giáo. Có thể nói, suốt đời ngài là một cuộc hành trình mạo hiểm truyền giáo. Đại để ta có thể chia cuộc truyền giáo của Phaolô làm ba thời kỳ:

Đệ nhất hành trình truyền giáo gồm bảy địa điểm chính là: Salamina, Paphô, Antiôkia, Icôniô, Lystra, Đécbê và Pergê. Sau bốn năm hoạt động truyền giáo ở đây, Phaolô đã thu lượm được nhiều thành quả khả quan. Giờ đây ngài trở về Giêrusalem dự đại hội nghị.

 Sau khi dự đại hội nghị tại Giêrusalem, Phaolô cùng với Sila, Timôthêu và Luca khởi sự cuộc hành trình truyền giáo thứ hai. Cuộc hành trình truyền giáo này nhằm ba mục tiêu:

a) Kinh lý các giáo đoàn mà ngài đã có công xây dựng lần trước.

b) Tuyên bố và giải thích thông điệp Đại hội nghị Giêrusalem hầu thống nhất hoạt động các nơi.

c) Thiết lập nhiều giáo đoàn mới khác theo lòng mong ước của ngài.

Cuộc truyền giáo lần này được khai mạc vào quãng tháng 3 năm 49. Ngoài việc kinh lý các giáo đoàn đã thiết lập, thánh Phaolô tới giảng Phúc âm và thiết lập một số giáo đoàn mới tại Philippê, Têxalônica, Bêrêa, Athênô, Côrintô, Galata... Đi tới đâu thánh Phaolô cũng chiếm được nhiều cảm tình của toàn dân và thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp. Sau mười tám tháng hành trình truyền giáo, thánh nhân trở về Antiôkia hầu bồi dưỡng thêm sinh lực về tinh thần cũng như vật chất để chuẩn bị mở cuộc truyền giáo thứ ba, mà kết quả của nó là ngài bị bắt điệu sang Rôma và trở nên “tù nhân của Chúa Kitô”.

Sau một thời gian nghỉ ngơi ở Antiôkia, thánh Phaolô nghĩ ngay đến cuộc xuất trận một lần nữa. Hình như ngài tiên cảm thấy thời giờ còn lại rất ngắn, ngài thấy cần phải triệt để lợi dụng thời giờ đó để đem lại ánh sáng Phúc âm cho những kẻ còn ngồi trong bóng tối tăm; cần phải chịu khó gieo vãi trong khóc lóc mới có hy vọng được gặt trong vui cười. Thế là Phaolô thu xếp công chuyện để được hoàn toàn tự do hiên ngang lên đường truyền giáo một lần nữa.

Trong đoàn tuy tùng, người ta nhận thấy trước sau có ông Aristarcô, Caiô, Êrastô, Luca, Sêcunđô, Sôpather, Tertiô, Timôthêu, Titô, Trôphinô, và Tychiô. Mục đích cuộc truyền giáo này là để cổ võ, khích lệ tinh thần các giáo đoàn đã được thành lập trong hai cuộc truyền giáo trước. Trọng tâm của cuộc truyền giáo thứ ba này là thành Êphêsô. Chính tại đây, Phaolô đã thu lượm được nhiều chiến thắng vẻ vang, nhưng cũng chính tại đây ngài phải chịu bao cay cực, đau khổ về vật chất cũng như tinh thần, như chính ngài đã xác nhận trong thư gửi giáo hữu thành Côrintô. Thực thế, ai cầm được nước mắt khi đọc lại những dòng sau đây:

“Tôi là sứ giả của Chúa Kitô trong bao nhiêu gian nan vất vả, trong roi vọt, trong sự ngấp ngoái chết hằng ngày!... Luôn luôn phải đi đây đó, gặp nhiều gian nan hiểm trở trong các sông ngòi, liều mình rơi vào tay bọn ăn sương, nguy hiểm bởi đồng bào, nguy hiểm bởi dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố đông đúc, nguy hiểm trên rừng xanh thanh vắng... Nguy hiểm bởi những anh em giả dối... Luôn luôn tôi lâm vào cảnh lầm than vất vả, thức khuya, dậy sớm, đói khát, chay lòng, rét mướt và trần truồng. Ngoài ra còn phải bận tâm lo lắng đêm ngày cho các giáo đoàn. Ai đau yếu mà tôi không thông cảm? Ai sa ngã mà tôi không chua xót?... Thiên Chúa đáng ngợi khen đời đời biết rõ tôi không dám nói ngoa tí nào” (2Cr 11.23-31).

Số kitô hữu mỗi ngày một gia tăng, đồng thời con số giáo đoàn cũng tăng lên vùn vụt. Hơn nữa các giáo đoàn ở rải rác khắp nơi. Vì không thể hiện diện thường xuyên nơi các giáo đoàn, thánh Phaolô phải viết thư thăm hỏi, khích lệ, sửa dạy, xây dựng các giáo đoàn. Chính những thư này đã đưa Phaolô tới mức thang tột đỉnh của danh vọng. Chính những thư này đã mở màn TÂN ƯỚC. Đây là một danh dự Chúa Quan phòng dành riêng cho Phaolô. Ngài được hân hạnh biết Chúa sau các môn đệ, nhưng lại là một nhà trước tác tiên khởi mở màn TÂN ƯỚC! Thật là vinh hạnh cho Phaolô.

Thời gian lưu trú ở ngoại quốc kể ra khá lâu, thánh Phaolô sốt ruột muốn trở về Giêrusalem. Đến ngày đã định, ngài từ giã con cái của ngài để lên đường về Giêrusalem, mặc dù đã được báo cho biết trong dịp trở về này ngài sẽ bị bắt. Quả đúng như lời tiên đoán, về tới Giêrusalem được ít lâu thì Phaolô bị dân Do thái phẫn nộ kéo đến bắt ngài. Phaolô bị giam trong ngục thất tại Cêsarê hơn hai năm trời. Tại đây ngài bị tra tấn, đánh đập khổ cực. Ngoài ra ngài còn bị người Do thái âm mưu hạ sát ngài. Phaolô biết rõ nếu còn ở lại đây thế nào cũng bị người Do thái ám hại. Ngài bèn nại tới quyền công dân Rôma để được đưa về xét xử tại Rôma. Lời xin của Phaolô được chấp thuận và người ta sửa soạn giải tù nhân Phaolô về Rôma.

Mùa thu năm 60, tù nhân Phaolô cùng với một số đông phạm nhân khác lên tầu tiến về Rôma. Cuộc hành trình này không gặp may mắn mà chỉ toàn gặp những tai nạn liên tiếp. Con tầu rẽ sóng ra đi bồng bềnh trên biển cả được mấy ngày bình an. Bỗng đâu cơn bão xẩy tới bất chợt. Con tầu bị sóng nước lôi đi như lá tre trên đại dương. Sức người đã bất lực. Đang lúc mọi người tung hết sức tàn ra chống lại với sóng gió, thì Phaolô cầu nguyện trong âm thầm. Vì lời cầu nguyện sốt sắng ấy mà Chúa cứu sống 276 nhân mạng. Người sai thiên thần hiện ra đưa tin mừng cho Phaolô, Phaolô vội vàng tìm đến với các bạn tầu đang chết giở vì đói rét và ngã lòng, lấy lời can đảm khích lệ: “Thưa các bạn, giả như các bạn nghe tôi đừng rời đảo Crêta mà đi tìm lợi, thì đâu có nông nỗi này. Nhưng thôi, việc đã rồi. Bây giờ tôi yêu cầu các bạn hãy vững lòng tin cậy: tôi hân hạnh báo tin mừng cho các bạn, mặc dù chiếc tầu bị vỡ tan tành trong sóng nước, nhưng không một ai trong chúng ta bị chết đuối. Đêm hôm qua sứ thần Thiên Chúa hiện ra với tôi nói rằng: “Hỡi Phaolô, con đừng sợ, thế nào con cũng phải đối chứng trước toà án Cêsarê! Vì con mà Thiên Chúa sẽ cứu sống các bạn đồng hành”. Bởi vậy, tôi yêu cầu các bạn cứ bình tâm, lời Thiên Chúa phán hứa làm sao thì sẽ thực hiện như vậy. Tôi biết chắc thế nào chúng ta cũng sẽ giạt vào đảo nào đó.

Sau 14 ngày đêm chống chọi với thần chết trên mặt biển, tầu trôi giạt vào đảo và mọi người được cứu thoát. Tại đây, Phalô đáp tầu tới Rôma vào hạ tuần tháng hai năm 61. Tới Rôma, Phaolô được phép ở nhà tư có lính quản thúc. Trong suốt mấy năm bị quản thúc ở Rôma, thánh Phaolô được tự do tiếp rước mọi người đến gặp ngài. Ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy cho dân đạo Chúa Kitô. Vì theo ý ngài, mặc dù người ta tầm nã, trăng trói, giam cầm sứ giả Phúc âm, nhưng không thể ràng buộc, trăng trói, giam cầm được chân lý Phúc âm. Trong thời gian quản thúc ở Rôma, thánh Phaolô viết nhiều thư thăm các giáo đoàn và các đồ đệ của ngài.

Bị giam cầm ít lâu, Phaolô được trả tự do. Nhưng qua năm 64, vì tính ngông cuồng của Hoàng đế Nêrô, Hoàng đế đã bí mật cho phóng hỏa kinh thành Rôma. Dân chúng bị hỏa hoạn nheo nhóc khổ cực, căm phẫn nổi lên chống lại Hoàng đế. Để dập tắt ngọn lửa phản loạn, Hoàng đế đổ lỗi đốt thành cho kiều dân Do thái và các kitô hữu. Sắc lệnh bách hại đạo được ban hành. Các kitô hữu bị giam cầm, hành hình mỗi lúc một tăng. Phaolô cũng chịu chung số phận của các kitô hữu, ngài bị bắt, bị kết án tử hình. Chỉ còn đợi ngày ra pháp trường.

Một buổi sáng tinh sương của mùa thu sắp tàn, Phaolô bị điệu ra pháp trường. Tới pháp trường, viên giám sát truyền trói Phaolô vào gốc cây, đánh một trận trước khi hành quyết. Sau khi bị một trận đòn chí tử, Phaolô phải bị bịt mắt; giám sát hạ lệnh, lưỡi gươm lướt qua cổ Phaolô, đầu rơi xuống đất, máu chảy chan hòa, xác lăn ra quằn quại trong vũng máu!... Linh hồn lên lãnh triều thiên chiến thắng. Xác ngài hiện an táng tại đền thờ tôn kính ngài ở Rôma. Trước đây Phaolô đã tuyên bố: “Chẳng những tôi vui lòng chịu trăng trói, gông cùm, mà lại chịu chết vì Chúa Giêsu Kitô nữa” (Cv 21,13). Lòng ước ao đó đã thành sự thực. Phaolô hoàn toàn toại nguyện.

Ôi! Một cuộc đời!... một lý tưởng!... một hy sinh!... Phaolô đã chết! Nhưng cái chết của ngài lại là lẽ sống của chúng ta. Giờ đây từ trời cao, ngài vẫn nhìn xuống khuyến khích chúng ta: “Anh em hãy bắt chước Cha như Cha đã bắt chước Chúa Giêsu” (1Cr 4,16).