Ba thày giảng cùng
bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng
được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thày:
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi
và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
Thánh
Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ - Thày giảng - (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi
nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai
thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai
Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì
đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng
con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn
Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm
13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê
Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19
tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thày giảng
thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu
sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã
chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây.
Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị
thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này.
thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ
giảng lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải.
Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành
và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống
đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận
niềm tin Kitô giáo.
Thánh
Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG - Thày giảng - (1808 – 1838)
"Nhất định
chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái
chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".
Lời nói trên cho
ta thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20
năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho
chính mình và ta nhân.
Sinh năm 1808 ở
làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình
Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là
linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay
khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm
cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được
gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích
lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho
tương lai.
Khả năng và nhân
cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được
Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày
giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha
Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành,
thày được mọi người trong xứ mến chuộng.
Thánh
Phêrô VŨ TRUẬT - Thày giảng - (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ
Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả
lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân :
"Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý,
để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Vũ Truật
sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn
Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại
chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con
dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh
Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được
cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ
và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng
chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn,
anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc
kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi
nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt
giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là
thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật
tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên
tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
Ba tấm
lòng vàng
Ở Bầu Nọ có người
ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội,
y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản
loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha
thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn
nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20-6-1837,
quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục
Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám
đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng
tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ
bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết
với cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính
phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân
chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài
hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba
vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và
giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao
các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời
: "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu
chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi
yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui
vẻ"
Các cuộc thẩm vấn
thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của
thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy
dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự
căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu
đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là
cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt
chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"
Riêng thày Truật
vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau
mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục
thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết,
và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng vì
thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thày
Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông
cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi
hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết
thương bị tra tấn."
Tháng 10 bản án
tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng
thay vì giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử
chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên
trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình ban đầu có nguy cơ
phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù
không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn,
quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung
lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thày giảng phải chờ
thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng
suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn
bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi
sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi
chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận
được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên
nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình,
làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian
chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng
mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"
Cha Triệu giả làm
thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng
phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha
Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được
rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi
nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề,
nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự
gì khác nữa…"
Cùng Chiến
Thắng Vinh Quang
Năm 1838, triều
đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành.
Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò
Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm
thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận,
truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước
ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban
phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị
cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu
như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba
thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn,
để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói
chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng
chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu
dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng.
Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết
thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ
Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho
các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy
tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và
Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển
thánh.
Nguồn từ thư
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Thầy giảng Phêrô
Vũ Truật
Sinh Bính Tý (1817) quê thật Hà Nam
Bị bắt tra tấn dã man
Vẫn trung thành chịu chẳng than chẳng buồn
Trước đau khổ thầy luôn tin tưởng
Vững một lòng theo hướng Chúa đi
Mồ côi cha muốn tu trì
Mẹ chiều chấp thuận đưa đi nhà thờ
Vào Cha Tốn xin nhờ giúp đỡ
Ðược ngài thương cho ở học hành
Thân hình ốm yếu xanh xanh
Không làm việc nặng hiền lành khôn ngoan
Hay đau yếu bỏ ngang việc học
Mẹ đón về săn sóc dưỡng nuôi
Buồn lòng đây đó ngược xuôi
Cha Tốn thương hại nhận nuôi giúp ngài
Học giáo lý và sai việc nhẹ
Dạy bổn kinh lanh lẹ theo Cha
Cha Tốn ngài đổi đi xa
Cố Phan trao lại ngài đà nhận ngay
Ngài nuôi dưỡng tiếp tay giúp việc
Lính quân quan khắp miệt bổ vây
Chú Truật bị bắt nơi này
Hiên ngang xưng đạo trình bày với quan
Ðức Cha Tabud phong làm Thầy giảng
Tuổi nhỏ thôi nói phản lại quan
Xác thân ốm yếu làng nhàng
Ðòn roi sao chịu khỏi mang gông cùm
Thấy gầy ốm thấp lùn quan dọa
Quá khóa mau ta thả cho về
Lời quan nói thật u mê
Mẹ cha quan dám dễ bề bước qua
Cây Thập giá giường Cha trời đất
Ngài là Ðấng chân thật tôn thờ
Bước qua tôi chẳng bao giờ
Thà rằng chịu chết sẵn chờ đầu bay
Quan tức giận hẹn ngày đem xử
Ở trong tù Thầy cứ truyền rao
Hồng ân tử đạo tự hào
Cha Triệu thăm viếng ban trao Máu Mình
Mẹ của Thầy một mình thăm viếng
Nhủ khuyên con hai tiếng kiên trì
Mặc dù bão táp hiểm nguy
Mẹ mong con mẹ hãy thì giảng rao
Hãy vững chí chớ đừng khuất phục
Mẹ yên tâm, tiếp tục tuyên xưng
Hiên ngang rao giảng Tin mừng
Con không ân hận, không ngừng nguyện xin
Sau bão táp ong tìm về tổ
Vững lòng tin Chúa đổ ơn lành
Ngày mai Giáo hội tươi xanh
Quê hương Nước Việt vinh danh Chúa Trời
Sao lại bảo dở hơi dại dột
Chết vì Ngài ngu dốt hay sao
Hy sinh tuôn đổ máu đào
Chứng nhân cho Chúa Trời cao hộ phù
Hưởng nhan Chúa thiên thu vĩnh cửu
Ngài giáng trần để cứu chuộc ta
Con xin dõi bước theo Cha
Vác cây Thập Giá để mà hy sinh
Rồi sau đó lý hình dẫn giải
Cả ba Thầy đều phải nằm xoài
Sợi giây thắt cổ khá dài
Chôn hai cột lớn quan sai lính cầm
Vị quan xử trung tâm ngồi giữa
Lệnh truyền ra sắp sửa thi hành
Hai đầu giây xiết thật nhanh
Cả ba tử tội trở thành cố nhân
Các giáo dân lo phần mai táng
Công việc nhiều gần sáng mới chôn
Giữa nhà bà Tín trong thôn
Kẻ May giáo xứ sớm hôm nguyện cầu
Năm Mậu Tuất (1838) ngõ hầu tử đạo
Thật dã man tàn bạo quân quan
Canh Tý (1900) Toà Thánh lệnh ban
Suy tôn Chân phước liên hoan Thiên đàng
Lời bất hủ:
Quan tra hỏi và chê bai thầy là dại dột lãng phí tuổi thanh
xuân, thầy trả lời: "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến
mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời". |