Giuse PHẠM
TRỌNG TẢ (1800-1859) - Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh
Tổng
Cuộc đời của hai
ông Cai Tả, Cai Thìn tuy cách biệt nhau 20 tuổi đời, nhưng đã
hòa lẫn với nhau trong cùng bối cảnh lịch sử thời tử đạo, một vị
là cựu, một vị là Chánh Tổng làng Quần Cống. Phải làm gì bây giờ
chắc chắn hai ông đã phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cùng
với sự ủy thác của đức Cha Sampecro Xuyên, giám mục giáo phận
Trung khi đó, hai ông chọn giải pháp hòa bình bằng phương thế
đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các tín
hữu. Mặc khác quan hệ với quan tổng đốc để gợi lên quan tấm lòng
nhân ái và quãng đại. Rất tiếc, đường lối đó không đạt như sở
nguyện, nên hai ông đã trả giá cho sứ mạng hòa giải bằng chính
mạng sống của mình.
Giuse Phạm Trọng
Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân
trường tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với thánh Án
Khảm, là con Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đã 60 tuổi, là
một kitô hữu đạo đức, một hội viên dòng ba Đaminh và là cựu
chánh tổng đã chu toàn chức vụ của mình. Phụ lực với cháu Cai
Thìn, ông tìm cách giúp mọi người sống đạo trong hoàn cảnh khó
khăn. Gia phả con cháu ghi rằng : "Đầy tớ ông rất đông, chưa tết
ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng rất hậu. Số tiền
ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền
thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì
cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng châm chước như thế.
Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời 'mình quên
nợ người chúa quên tội mình'".
Luca Phạm Trọng
Thìn là con trai cụ An Khảm, sinh khoảng năm 1820 tại làng Quần
Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Như ta đã biết
về cụ An Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn đã
lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí
khôn thông minh nhanh nhậu và chăm chỉ chuyên cần chẳng bao lâu
anh đã "công thành danh toại". Khi bị bắt ông Cai Thìn khoảng 40
tuổi và đang là Chánh Tổng, vừa quyền thế vừa uy tín. Thực ra
khi mới lên chức vụ này, vì giao tiếp với quan lại nhiều, có
thời kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc
đạo nghĩa (vợ chính ông Cai Thìn là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ
lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đã thành
tâm sám hối. Từ đó ông trở thành một mẫu gương thánh thiện, một
gia trưởng và một hội viên dòng ba Đaminh đạo đức, một thủ lảnh
đáng tin cậy.
Năm 1858, tình
hình bắt đạo đang gia tăng, và liên quân Pháp-Tây Ban Nha đang
đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ ra lệnh cho
quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo gia tô.
Nhưng thực tế việc việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan
địa phương có sốt sắng hay không. Lợi dụng điều đó, Đức Cha
Sampedro Xuyên đã ủy thác cho Cai Tả và Cai Thìn trọng trách sứ
giả hòa bình, vì cũng thuộc thành phần lãnh đạo, dễ dàng tiếp
xúc với cấp trên.
Hiểu ý Đức Cha và
nắm tình hình các tín hữu Quần Cống, hai ông đã đến gặp trực
tiếp Tổng Đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu được
bình an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với đức vua. Cuộc
thương thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xá,
một người vì bất mãn chính sách của nhà vua, đã xúi dục một nhóm
người nổi loạn chống lại các quan địa phương. Thế là vị Tổng Đốc
liền đổi ý, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai, các đạo
trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả,
cai Thìn là lừa dối và tìm dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết
cơ hội để quan thực hiện ý đồ đó trong phần sau.
Ba lần ra trước
tòa, cả ba lần hai ông đều cương quyết không bước qua Thập Giá,
dù bị dọa nạt đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết những suy
nghĩ của mình lên giấy, Cai Thìn đã viết bảng tuyên xưng Đức Tin
rõ rệt và can đảm như : "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẳn sàng chấp
nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi
phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết
điều này Luca Thìn".
Ông Cai Tả không
cương quyết không xúc phạm Thánh Giá, ông còn khuyên bảo mọi
người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là "ghê tởm" đó .
Nếu Đức Giêsu
Hoàng Tử Bình An đã dùng Thánh Giá khổ nhục để hòa giải nhân
loại bạc bẻo với Chúa Cha thì cuối cùng, hai ông Cai Tả và Cai
Thìn sẽ mãi mãi là sứ giả Hòa Bình bằng cái chết để chứng tỏ
lòng mình luôn trung tín với Thiên Chúa và trung thành với Giáo
Hội.
* *
*
Năm 1858 khởi đầu
cho giai đoạn 5 cuộc bách hại đạo gay gắt nhất trong lịch sử
Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng đáng cho những
ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị thừa sai Âu Châu và ngược lại sẽ
trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các Ngài phải
nay đây mai đó, trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một
nơi ẩn náu khá an toàn, vì các chức sắc trong làng là ngừơi Công
Giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các Ngài. Đức cha Sampedro
xuyên, đại diện tổng tòa giáo phận Trung dự đoán có thể bị bắt
bất ngờ, đã thủ phong giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh
ngày 14-06 tại ninh Cường, hai cha Riano Hòa và Carrerras Hiển
là phụ phong. Sau đó cả bốn vị đều ẩn tại làng Quần Cống, trọ
tại nhà cụ An Khảm, Cai Tả và Nhiêu Côn.
Quan An sát Nam
Định được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng,
liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ An Khảm kịp biết
tin, vội vàng tìm cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức
cha Vinh và hai Linh mục qua làng Trà Lũ. Đức cha Xuyên đi qua
Kiên Lao (ngày 08-07 mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đã đi xa,
cụ cho mỏ làng đi trước, đích thân cầm roi đi sau, bắt mõ làng
rao lớn tiếng : "Trình quan viên làng nước, có lệnh cụ Án truyền
rằng : người nào quá khóa phải phạt ba roi và bị đuổi ra khỏi
làng." Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.
Sau đó, quan quân
ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân làng tập trung lại, và rồi gọi
cụ An Khảm ra trình diện và nói : "Mau nộp ngay lập tức các đạo
trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẩn trốn
trong làng. Nếu bất tuân lão sẻ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà
cửa sẽ bị thiêu hủy, còn chíng lão sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà
vua." Cụ An Khảm hết sức bình tĩnh vì biết chắc các thừa sai đã
trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời : "Đúng, đạo chúng tôi có các
đạo trưởng nhưng các ngài ở đâu làm sao chúng tôi biết được. Xin
quan cứ tự do lục soát nếu tìm thấy vị nào trong làng thì quan
muốn làm gì cũng được."
Thế là quân lính
chia nhau lục soát khắp ncả nhà, dĩ nhiên là không tìm thấy một
linh mục. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng ảnh, áo lễ
nên chủ nhà bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ An đã đứng ra
nhận là mình đã mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt
trói cả nhà.
Trở lại nơi tập
trung dân làng, quan An sát cho đặt một Thánh Giá ngay giữa sân,
rồi bắt mọi ngừơi lần lượt bước qua. Nhưng quan đã thất bại dù
lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng không một ai
bước qua Thánh Giá. Một bô lão có lẽ vì quá sợ, run rẩy tiến lên
vài bước, định thi hành lệnh quan, nhưng cụ An nhanh chân hơn
cản lại và khiển trách. Viên quan tức giận quát lên rằng : "Ta
sẽ mất chức nếu không kết tội đươc An Khảm và bọn người vô phúc
này." Thế rồi quan lại bắt trói An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn và
một số người khác, rồi giải về Nam Định, riêng cụ An được chở đi
trong thuyền của quan.
Chúng tôi được nước Thiên Đàng
Về tới Nam Định,
hai cha con cụ An Khảm được gặp nhau trong những lần ra tòa, và
sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng và xúc động khuyến
khích nhau chịu khổ vì lòng kính mến chúa Kitô.
Tất cả những tù
nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin,
dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ An Khảm đã nhiều lần đại
diện cả nhóm trả lời với quan, đã tìm cách giáo lý trong đạo.
Một hôm sau khi
bắt được Đức Cha Xuyên, quan cho dẫn ba ông đến trước mặt Đức
Cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không dấu được niềm vui gặp
lại vị chủ chăn của mình. Thấy thế quan phỏng đoán và kết tội
các ông chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức Cha đã ở nhà
mình, cụ An Khảm tìm cách trả lời chung chung : "Là ngừơi tín
hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến bất cứ một linh mục nào, dù
chưa hề quen biết."
Sau bốn tháng rưỡi
bị giam, một hôm quan báo cho biết là cả ba vị đều bị kết án xử
giảo. Ông Cai Thìn hỏi lại án đã kết tội gì, quan cho hay là tội
chống lại nhà vua. Ong Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề
nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ "bất khẳng quá
khóa"; nghĩa là tội không chịu bước qua Thập Giá. Các ông vui
mừng hân hoan vì được chết cho Đức Kitô. Và trong những ngày còn
lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lãnh nhận hồng phúc
tử đạo.
Ba vị chứng nhân
đức tin đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức Kitô chúc phúc cho những
người bách hại vì danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu khổ
nhục, bị giết vì danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị
đã hân hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu
khác. Và khi nghe báo giờ xử tử đã tới, cụ An Khảm vui vẻ nói
với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm nay được nước Thiên
Đàng". Cả ba vị đã sẵn sàng giả từ trần gian để về hợp đoàn với
hàng ngũ các thánh Tử Đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần
thưởng vinh phúc Chúa đã hứa ban cho những tôi trung của Ngài.
Ngày 13-01-1859,
ngoài ba vị An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu làng
Quần Cống khác được đưa ra pháp trườngBảy Mẫu, Nam Định. Trên
đường đi các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử các vị tiếp tục
đọc kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với
nhau, rồi lớn tiếng kêu Chúa Giêsu.
Quân lính mạnh tay
xô các vị té ngửa trên đất, rồi trói chân tay từng người vào cọc
đã chôn sẵn. Mỗi người bị hai người lính cầm hai đầu dây thừng
tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu
làng Quần Cống rước các vị đưa về quê mình, và tổ chức an táng
trọng thể.
Đức Piô XII đã suy
tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm
Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày
29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các
Ngài lên hàng hiển thánh.
Nguồn
từ tu viện Đa Minh
Trường Thi Tử Đạo
Cựu Chánh Tổng ông
Phạm Trọng Tả
Chọn quan thầy Thánh cả Giuse
Gia đình sung túc đề huề
Canh Thân (1800) năm đẻ thuộc về Phú Nhai (Nam Ðịnh)
Làm Chánh Tổng công khai sống đạo
Việc ngoài đời thông thạo an dân
Tiếng thơm nổi khắp xa gần
Hể ông mà nói là dân nghe liền
Trong công việc bạc tiền không tưởng
Bởi thế nên ảnh hưởng càng cao
Từ ngày cấm đạo phong trào
Trăm nghìn việc khó đổ vào cho ông
Làm thế nào để không bắt bớ
Làm thế nào để đỡ giáo dân
Cha con bàn bạc xa gần(1)
Dĩ hoà vi quý phải cần làm ngay
Phạm Trọng Tả mấy ngày tiếp xúc
Tình hình ta mỗi lúc một êm
Ai ngờ cháy đổ dầu thêm
Công xá một nhóm nửa đêm công đồn(2)
Gặp Trọng Tả quan dồn tra hỏi
Việc xảy ra đây hỏi tại ai
Mưu sâu ông sắp sẵn gài
Bắt luôn tra tấn một hai chạy trời
Ông bị bắt dân thời thương tiếc
Rất hoan nghênh những việc ông làm
Thế trần của cải chẳng ham
Xoá nợ, giảm lãi việc làm của ông
Bà thấy thế như không đồng ý
Ông nói làm theo chỉ đạo Cha
Hôm qua mình tội Cha tha
Hôm nay người nợ bỏ qua được rồi
Còn những việc tày trời hơn nữa
Quan tập trung dân giữa sân trường
Trưa hè trời nắng thảm thương
Ðặt cây Thập giá giữa đường bước qua
Trong lúc đó trẻ già trai gái
Còn phân vân ngần ngại biết sao?
Ngoài xa ông nhảybổ vào
Ai mà quá khoá thì tao đánh đòn
Quan thấy thế chẳng còn ngần ngại
Bắt trói ông giam tại huyện đường
Ðánh đập tra tấn thảm thương
Làm đơn đề nghị tỉnh đường xử ngay
Kỷ Mùi (1859) tháng một Mùa chay
Phúc tử vì đạo đúng ngày mười ba
Tân Mão (1951) Toà Thánh ban ra
Tấn phong Chân phước hoan ca Nước Trời
---------------
1/ Cha con bàn việc với Ðức Cha Xuyên.
2/ Ở Công Xá có một nhóm quá khích nổi dậy.
Lời bất hủ: Vị thánh đã tuyên xưng đức tin của mình trước
quan, qua bản viết như sau: "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng
chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn
là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ". |