Thánh
Phaolô NGUYỄN NGÂN - Linh mục - (1790 – 1840)
Điều bận tâm nhất
trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức
Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than
với mọi người rằng: "chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin
từng con một quá…". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn
sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân
sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ,
đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi
thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ
Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét
nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi
khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về
làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị
bắt.
Thánh
Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI - Linh mục - (1793 – 1840)
Đọc lại cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các
thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói
với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các
anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".
Thế là ứng nghiệm
lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con
không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse
Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào
trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở
nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh
tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.
Giuse Nguyễn Đình
Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc
Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã
dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong
trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy
thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi,
thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm
phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp
cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm
cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ
Báng thì bị bắt.
Cha Nghi có nếp
sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi
tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải.
Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho
sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui
vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên
trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân
chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu
chắc làm quan lớn lắm…
Trong những năm
vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng
ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh
chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít
tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.
Thánh
Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)
Sau 80 năm phụng
sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh
đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải
dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng
cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã
trả lời cho người lính hỏi: "Ông có phải là đạo trưởng không",
bằng lời xác nhận "Phải tôi đây". Lời xác nhận đó đưa cha đến
chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi
gương.
Martinô Tạ Đức
Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc
khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình
định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và
đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết
định xin đi tu dâng mình cho Chúa.
Thày Thịnh thụ
phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho
Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha
đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.
Theo sự bổ nhiệm
của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là
Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm
liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi.
ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các
tín hữu kính nể và yêu mến.
Một hôm cha bị
nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức
khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước
cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám
tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.
Tai họa cho làng Kẻ Báng.
Tổng đốc Trịnh
Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng
trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá
hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích
một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta
đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không
trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo
hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền
đi tố giác với quan.
Ngày 30.5.1840,
theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng
Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất
cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung
ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy
phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm
nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi
lục soát tất cải "hang cùng ngõ hẻm". Ngày đầu tiên không tìm
thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố
giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát
tiếp.
Ngày thứ ba, quan
ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha
Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra
bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn,
bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát
mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở
nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.
Về cha Thịnh thì
giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính
đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì.
Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ
cha khai là : "Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm
danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh
khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : "Ông có phải
là đạo trưởng không ?" Cha liền đáp: "Phải tôi đây". Thế là cha
Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi
dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa,
trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả
làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ,
ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.
Vững vàng tuyên tín…
Suốt một tháng
đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa
phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước
qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng:
"Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể
làm theo lời quan được". Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các
thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền
trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.
Ba ngày sau
(06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói :
"Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết". Cha
Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu
không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập
Giá, chúng tôi không dám". Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi.
Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa,
vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông
không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức
giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.
Hạnh phúc thiên thu.
Thấm thoát ba cha
ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều
ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một
mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các
ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh
đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba
cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt
sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Ngày 08.11.1840,
cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500
người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ
xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh
quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc
đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.
Thi thể hai cha
Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở
xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.
Đức Lêo XIII suy
tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và
Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển
thánh.
Nguồn từ thư
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Trương Minh Giảng
lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người
Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay
Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu
Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây
Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông
Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương
Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà
Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan
Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền
Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha
Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền
Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi
Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau
Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây
Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng
Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành
Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân
Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia
Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành
Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông
Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu
Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh
Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ
Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài
Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân
Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh
Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời
Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau
Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai
Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm
Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi
Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi
Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn
Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh
Lời bất
hủ:
- Trong thời bách
hại, cha thường than thở với mọi người rằng: "Chủ chăn khó đi
tìm chiên lạc, khó biết tên từng con một quá.". Cha thường tỏ ra
tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từng tín hữu của mình
được.
- Quan gọi cha ra
công đường bắt bước qua Thập giá, cha đều can đảm từ chối, cha
nói: "Tôi đã bằng này tuổi đầu, mà còn sợ chết nữa sao! Tôi
không thể làm theo lời quan được".
- Trong những năm
vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm ước mong tử đạo, nhưng
ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh
chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ cha cẩn thận mang theo ít
tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt. Lần bị quan tra
hỏi, cha Nghi trả lời: "Thưa quan thương, chúng tôi nhờ, nếu
không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mồ, còn bước qua Thập
giá chúng tôi không dám".
- Tổng đốc Trịnh
Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các
ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn
cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì".
Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai
ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các
ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung
kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc. |