Cuộc hội
ngộ trong tù.
Khi bị thẩm vấn về các thừa sai, linh mục Fernandez Hiền liền
nhận là có quen thân với hai Giám mục Delgado Y và Henares Minh.
Cha xin quan cho gặp mặt vì biết hai vị đang bị giam cầm ở đây.
Cuộc gặp kéo dài gần tiếng đồng hồ, mỗi vị một cũi. Nhưng cũng
đủ để ba vị thủ lãnh giáo phận Đông trao đổi, an ủi và khích lệ
nhau. Đức cha Delgado Y vì bệnh nặng nên ít nói hơn. Nhưng bỗng
nhiên ngài hỏi cao giọng bằng tiếng Việt, chắc có ý cho quan
quân nghe được : "Này cha bề trên phụ tỉnh, cha đã sẵn lòng tự
nguyện để người ta chém đầu chưa ?" Không chút ngần ngừ, cha
chính Hiền trả lời : "Dĩ nhiên đã sẵn sàng". Các quan và lính
tráng có mặt hôm đó đều ngạc nhiên hết sức khi thấy những tù
nhân của họ nói đến cái chết cận kề, mà vẫn bình tĩnh, nếu không
nói là vui vẻ nữa.
Hai ngày sau, tân
tư của cha Hiền được khẳng định rõ hơn cho các quan : "Xin các
ngài biết cho, không bao giờ tôi chà đạp Thánh Giá. Còn việc về
nước (Tây Ban Nha) thì tôi không muốn, vì tôi đến đây với ước
nguyện là giảng đạo Chúa Kitô, đạo chân chính duy nhất giúp con
người sống tốt đẹp ở đời này và đạt hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Tôi sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho người dân Việt biết
đạo Thiên Chúa là đạo thật. Đó là mục đích và niềm vui của tôi".
Hành trình
rao giảng
Giuse Fernandez sinh ngày 03.12.1775 trong một gia đình đạo đức
ở Ventosa de la Cuesta, tỉnh Valladolid, giáo phận Avila, Tây
Ban Nha. Cha mẹ cậu rất hân hoan khi cậu xin vào dòng Đaminh, và
coi đó là một vinh dự cũng như đặc ân Chúa ban cho gia đình. Tại
tu viện thánh Phaolô (ở Valladolid) cậu tuyên khấn ngày
02.08.1796, khi mới 17 tuổi. sau đó thày Fernandez học triết lý
và thần học, rồi được thụ phong linh mục.
Để
thực hiện hoài bão truyền bá Tin Mừng cho niền Viễn Đông, cha
Fernandez xin chuyển qua Tỉnh Hạt Rất Thánh Mân Côi và tới
Manila (Phi Luật Tân) ngày 16.04.1805. Từ đây ngài đến Macao
cùng với ba cha dòng Đaminh khác : Luis Villanova, Giacôbê Mateo
và Manuel Gonzalez. Ngày 18.02.1806, bốn tu sĩ thuyết giáo theo
một tàu của Anh vào bến Cửu Hàn (Đà Nẵng). Từ đây, bốn vị riệng
rẽ đi bộ lên giáo phận Đông Đàng Ngoài, trời có bão, các thuyền
bè không ai giám chở. Tháng 6 năm đó, cha Fernandez đến được trụ
sở Bề trên phụ tỉnh.
Việt Nam thời này đang dưới quyền Gia Long, các thừa sai tương
đối tự do giảng đạo. Sau một vài tháng học tiếng, vị tông đồ trẻ
tuổi đã bắt tay vào công việc truyền giáo hăng say. Vốn bản tính
hiền lành, khiêm tốn và nhã nhặn, cha Hiền được mọi người cả
giáo lẫn lương đều quí mến. Nhờ đó cha đã giúp nhiều lương dân
đón nhận đức tin, nhất là tại làng Xuân Dục.
Giáo xứ cha Hiền phụ trách lâu nhất là Kiên Lao, nơi cha đã nâng
số tín hữu lên đến 5.000 khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng
bùng nổ. Từ đây cha phụ trách chủng viện của giáo phận. Năm
1837, sau một cơn bệnh kiết lỵ suýt chết, tỉnh dòng trao cho cha
chức vụ Bề Trên Phụ Tỉnh. Cha vâng lời nhận trách nhiệm với sự
trợ giúp của linh mục phụ tá Hermosilla Vọng. Tuy làm cha chính
có vài tháng, cha đã phải lãnh trách nhiệm trong giai đọan bão
tố của giáo phận Đông. Những lá thư của cha Viên bị tịch thu đã
tố cáo sự hiện diện của các linh mục ngoại quốc tại Nam Định.
Cô đơn và
niềm an ủi.
Trong cơn truy lùng gắt gao của Tổng đốc Trịnh Quang Khanh năm
1838, cha Hiền đang ở chủng viện Ninh Cường, được giáo dân yêu
cầu dọn đi nơi khác : "xin cha thương chúng con mà lánh đi nơi
khác, kẻo nếu họ bắt được cha ở đây, chúng con sẽ mất hết tài
sản và có lẽ mất cả đầu nữa". Thế là vị linh mục 63 tuổi đang
mang trọng bịnh, đành phải ra về Quần Liêu, có hai thày giảng
theo giúp đỡ ngài.
Khi đến Quần Liêu, giáo hữu ở đây cũng lo sợ không kém bên Ninh
Cường. Vì sợ liên lụy, họ đã xin ngài đừng ở lại. Một lần nữa
cha Hiền và hai thày giảng lại ra đi mà không biết đến đâu, vừa
đi vừa nghĩ đến gương của Thày Chí Thánh : "Cáo có hang chim
trời có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu". Nhưng may mắn
thay, đang tình trạng bế tắc đó thì một linh mục Việt Nam xuất
hiện.
Cha Phêrô Tuần đang coi xứ Lác Môn khi biết tin, liền đến Quần
Liêu can thiệp. Cha trách các tín hữu ở đây bội bạc, và yêu cầu
họ cho cha Hiền lưu lại vài ngày. Cha Tuần cũng quyết định ở lại
để tìm chỗ ẩn mới cho vị thừa sai. Hai ngày sau, hai cha vượt
sông qua giáo phận Tây đàng Ngoài, ghé vào xứ Kim Sơn. Nhưng vừa
đến nơi thì hay tin quan tỉnh Nam Định đã ra lệnh cho quan địa
phương lùng bắt hai vị rồi. Dân xứ Kim Sơn vì thế không giám lưu
giữ, họ mời hai vị linh mục lên một chiếc thuyền nhỏ rồi đưa các
vị vào vùng xình lầy gần đó. Địa điểm này tuy an toàn không bị
truy lùng, nhưng quả là gian khổ vì bùn lầy tanh hôi, ban ngày
thì nắng cháy da, đêm về thì làm mồi cho muỗi đốt.
Con đường
thập giá.
Cũng may có cha xứ Kim Sơn khi biết tình trạng bi đát của hai
chứng nhân đức tin liền tìm cách thu xếp. Hai ngày sau, ngài cho
người rước hai cha về trú ở nhà ông Bát Biên (hàm Bát Phẩm), là
người thọ ơn cha xứ nhiều lần. Hơn nữa ông này ngoại giáo nên ở
đây an toàn hơn. Thực tế Bát Biên xử với hai vị rất tốt suốt tám
ngày liền, trước khi lập mưu giao nộp để lãnh thưởng.
Đêm 18.06, ông ta nói dối rằng: "Con nghe tin quan biết hai cha
ở đây, và quan quân sắp đến vây làng, con phải đem hai cha đi
nơi khác, an toàn hơn". Rồi ông ta mời cha chính Hiền xuống
thuyền đem nộp ngài cho quan quân trên bờ sông Qui hậu. Sau đó,
về nói dối để chở cha Tuần đi nộp tiếp. Nhờ việc tố giác này,
Bát Biên được vua Minh Mạng tăng thêm một cấp quan và thưởng cho
100 nén bạc.
Đêm hôm đó, hai môn đệ Chúa Kitô bị giam tại huyện, các ngài
giải tội cho nhau và khích lệ nhau chịu đựng gian khổ dù phải
chết. Sáng hôm sau, quân lính điệu hai cha lên Ninh Bình, cha
Hiền bị nhốt trong cũi bằng tre, cha Tuần phải mang gông nặng.
Ngày 22.06, hai cha được giải về Nam Định, các quan và lính võ
trang ra đón hai cha giữa tiếng hò reo chiến thắng. Sau đó họ
giam mỗi vị một nơi.
Ngồi bó gối trong cũi tại ngục Nam Định, cha Hiền phải chịu đói
khát, và nhất là cơn nóng nực. có lẽ ngài đã chết tại đó nếu
không được anh Đường, một tín hữu tốt bụng đến tiếp cứu. Anh đã
bỏ tiền ra mua chuộc lính gác để được vào tiếp tế mỗi ngày một
ít lương thực. Mấy ngày đầu, anh còn phải giúp ngài đưa từng
miếng cơm, ngụm nước vào miệng vị linh mục quá kiệt sức đến độ
tự mình không thể ăn uống được nữa.
Một tháng trong tù, nhiều lần cha bị đưa ra tòa để đối chất.
Quan Tổng đốc mới Lê Văn Đức điều tra ngài về lý lịch, đến đây
làm gì, bao lâu ? Cha cố trả lời vắn tắt để không liên lụy đến
ai. Cha nói : "Từ ngày vua cấm đạo, chúng tôi mạnh ai nấy chốn,
chẳng biết ai ở đâu cả". Quan hứa sẽ đặt cha làm thông dịch viên
nếu chịu bỏ đạo, cha đáp : "Tôi đến đây không để phục vụ vua
chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng đạo Đức Chúa Trời thôi".
Thế rồi, cha xin được gặp hai Đức cha đã bị giam trước, và bình
tĩnh tỏ lòng sẵn sàng chết vì đức tin theo vị chủ chăn của mình.
Thấy không thể làm cha bỏ đạo, đạp lên Thánh Giá, các quan họp
nhau và nên án trảm quyết ngài. Bản án của cha và cha Tuần được
vua Minh Mạng châu phê tới Nam Định ngày 18.07. Cha Phêrô Tuần
vì tuổi già sức yếu, đã về với Chúa trước đó ba ngày.
Giây phút
vinh quang.
Sáng ngày 24.07, trước khi đem đi xử, các quan còn khuyên dụ cha
Hiền lần cuối : "Lát nữa ông sẽ bị chém đầu nếu không đạp lên
Thập Giá. Hãy quyết định lại đi, ông sẽ được tha về Âu châu". Vị
chứng nhân trả lời: "Tôi không chịu đạp lên Thánh Giá, các ông
muốn chém thì cứ chém". Sau đó nhốt cha trong cũi, các quan để
mặc dân chúng đến xem chế nhạo. Họ kéo đến chửi mắng, bứt tóc
giật râu hoặc thò tay đấm vào người cha.
Khoảng 2 giờ chiều, quan quân mới đưa vị linh mục đến pháp
trường Bẩy Mẫu. Khi quân lính kéo ngài ra khỏi cũi và ném lên
chiếu, ngài hầu như không gượng dậy nổi, phần vì đau mệt, phần
thì đói lả, ngài nằm sõng soài ra đó. Tuy thế, cặp mắt của vị
anh hùng vẫn hướng về trời cao, dâng lên Thiên Chúa hy tế đời
mình và dâng lời cảm tạ sốt sắng qua 32 năm đã được phúc làm
chứng cho Thiên Chúa ở Việt Nam. Lý hình vung gươm xử chém đang
lúc chứng nhân còn chìm sâu trong ý nguyện.
Đầu vị tử đạo phải bêu ba ngày trước khi bị ném xuống sông. Các
giáo hữu đem áo quan theo sẵn, đút tiền để đưa thi hài ngài về
án táng tại chủng viện Lục Thủy. Hiện hài cốt ngài còn để tại
nhà thờ Phú Nhai.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn cha Giuse Fernandez Hiền,
dòng Đaminh, lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ tu
viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Giuse Fernandez
Hiền linh mục
Sinh Ðinh Sửu (1775) quê thực (Tây) Ban Nha
Gia đình đạo đức sinh ra
Thủa nhỏ học giỏi nết na hơn người
Mười lăm tuổi được vào chủng viện
Cha mẹ thầy cầu nguyện không ngừng
Trong nhà bày tiệc ăn mừng
Ðây là ơn huệ gia đình Chúa cho
Tại tu viện Phaolô tuyên khấn
Hai mươi bảy (tuổi) dấu ấn của thầy
Triết lý, thần học giỏi hay
Ðược phong linh mục năm thầy ba mươi (tuổi)
Nuôi hoài bảo trong người truyền giáo
Xin vào dòng đào tạo tại Phi
Học xong cất bước ra đi
Macao rồi đến Trung Kỳ Việt Nam
Chuyến tàu đáp Cửa Hàn Ðà Nẵng
Vượt biển đông đằng đẳng mấy tuần
Ðến đây lại được chia phần
Kẻ thì ở lại Cha phân Bắc Kỳ
Mấy ngày ấy trời thì nổi bão
Chuyến tàu đi chao đảo phải ngừng
Chuyển sang đường bộ đi dần
Tháng sáu ngài đến Bắc phần trình thư
Ðạo Công giáo vô tư thời ấy
Vua Gia Long ngài thấy không sao
Tự do thờ phượng giảng rao
Nhà thờ lễ hội ra vào tự do
Cha Hiền được người ta quý mến
Từ giáo dân cho đến lương dân
Giảng khuyên nhã nhặn ân cần
Kiên Lao là xứ dừng chân khá dài
Cha Hiền vốn có tài đào tạo
Nâng giáo dân xứ đạo năm nghìn
Cùng nhau gìn giữ đức tin
Ðầy lòng mến Chúa hướng nhìn Nước Cha
THỜI CẤM ÐẠO
Vua Minh Mạng đưa ra chiếu chỉ
Cấm đạo trời trực chỉ thừa sai
Cha Hiền cực khổ trần ai
Khi đó chủng viện do ngài đảm đang
Ðược mấy năm chuyển sang Cha Chính
Phải đương đầu nhận lãnh đau thương
Bề Trên phụ trách đảm đương
Trong lúc đang bệnh kiên cường lẹ nhanh
Quan Tổng đốc Quang Khanh Nam Ðịnh
Rất hăng say ra lịnh gắt gao
Mục tiêu lùng bắt nhắm vào
Thừa sai truyền giáo nơi nào tình nghi
Cha Hiền biết giờ đi đâu ở
Mà ở đây khi lở xảy ra
Quan quân đốt hết cửa nhà
Tịch thu tài sản bấy giờ làm sao
Thu xếp lẹ rồi trao chìa khoá
Rời Minh Cường, Cha đã ra đi
Quần Liêu, Lạc Viên, Quan Chi
Kim Sơn, Phát Diệm ở thì không ưng
Về sau Cha vào bưng tạm trốn
Ở nơi đây càng khốn khổ thân
Ban ngày nắng rát tay chân
Ban đêm muỗi đốt tấm thân bùn lầy
Ở đây được mấy ngày đói khổ
Về sau này có chỗ nương thân
Nhà ông Bắt Biên cũng gần
Là nơi qua lại tương thân bấy giờ
Thật tình ai có ngờ đâu được
Ông Bắt Biên lúc trước nâng niu
Về sau ông mới lập mưu
Nạp Cha lãnh thưởng buồn thiu cảnh đời
Ðêm hôm ấy Cha thời bị bắt
Ðoàn quân quan dẫn dắt Cha về
Nình Bình giam củi hẹp ghê
Ngồi thì chẳng được nằm thì không xong
Ngày hôm sau giải vòng Nam Ðịnh
Chúng hò reo ngộ nghỉnh khắp nơi
Cha Hiền trong củi ngộp hơi
Trong bụng thì đói, miệng thời khô rang
May sao có anh Ðường nhìn thấy
Anh đem tiền cho mấy lính canh
Cha Hiền được tiếp tế nhanh
Nếu không Cha đã biến thành cố nhân
Cuộc hỏi cung trăm phần khó chịu
Hết răn đe đến điệu dỗ dành
Cha Hiền vẫn nói như đanh
Tôi sang giảng đạo tốt lành trời cao
Phục vụ vua tôi nào làm được
Giảng đạo trời đâu thuộc thế gian
Quan nói ông muốn bình an
Bỏ đạo quá khoá vô can tha về
Cha Hiền nói: tôi thề trước Chúa
Không khi nào lỗi hứa được đâu
Thế gian dù phải chém đầu
Ngày sau Chúa thưởng nhiệm mầu trời cao
Quan thấy chắc không sao dụ nổi
Bản án làm luận tội cho Cha
Án phê phải chém đó mà
Pháp trường Bảy Mẫu nơi Cha an bình
Năm Mậu Tuất (1838) lý hình chặt cổ
Cha chính Hiền người đổ máu ra
Giáo đô Toà Thánh Rôma
Suy tôn Canh Tý (1900) nay ta tôn thờ
Lời bất hủ: Cha Hiền đáp lại lời hỏi cung của các quan
như sau: "Xin các quan biết cho, không bao giờ tôi chà đạp Thánh
Giá, còn việc về nước Tây Ban Nha thì tôi không muốn, vì tôi đến
đây với ước nguyện là giảng đạo Chúa Giêsu, đạo chân chính duy
nhất giúp con người sống tốt đẹp ở đời này và đạt hạnh phúc vĩnh
cửu đời sau. Tôi sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho người
dân Việt biết đạo Thiên Chúa là đạo thật. Ðó là mục đích và niềm
vui của tôi". Tổng đốc mời Lê Văn Ðức điều tra và hỏi cung ngài,
ngài đáp: "Từ ngày vua cấm đạo, chúng tôi mạnh ai nấy trốn chẳng
biết ai ở đâu cả". Quan hứa sẽ tâu vua đặt cha làm thông dịch
viên nếu cha bỏ đạo, Cha đáp: "Tôi đến đây không để phục vụ vua
chúa trần gian này, mà chỉ để rao giảng đạo Ðức Chúa Trời thôi".
. Quan dụ dỗ đạp lên Thánh Giá, cha liền đáp: "Tôi không chịu
đạp lên Thánh Giá, các ông muốn chém thì cứ chém". |