TÔNG THƯ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI TẤT CẢ CÁC NGƯỜI THÁNH HIẾN DỊP CỬ HÀNH
NĂM CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Anh chị em trong đời sống thánh hiến thân mến,
Cha viết cho các con với tư cách là người kế vị thánh Phêrô, người
được Chúa trao cho nhiệm vụ củng cố anh chị em ḿnh trong đức tin
(x. Lc 22,32). Nhưng cha cũng viết cho các con với tư cách là một
người anh em, giống như các con, được hiến thánh cho Thiên Chúa.
Ta hăy cùng tạ ơn Thiên Chúa Cha, Đấng đă kêu gọi ta đi theo Chúa
Giêsu qua việc ấp ủ trọn vẹn Tin Mừng và phục vụ Hội Thánh, và đă đổ
vào ḷng ta Chúa Thánh Thần, là nguồn mạch của niềm vui và của việc
ta làm chứng cho t́nh yêu và ḷng nhân từ của Thiên Chúa trước mặt
thế gian này.
Để đáp lại yêu cầu của nhiều người trong các con và của Bộ về các
Hội Ḍng Đời Sống Thánh Hiến và các Hội Đời Sống Tông Đồ, cha quyết
định công bố Năm Đời Sống Thánh Hiến nhân dịp kỷ niệm năm mươi năm
Hiến Chế Tín Lư về Hội Thánh Lumen Gentium, một hiến chế nói về các
tu sĩ trong chương sáu và về Sắc Lệnh Perfectae Caritatis về việc
canh tân đời tu. Năm này sẽ bắt đầu vào ngày 30. 11.2014, Chúa Nhật
thứ nhất Mùa Vọng và kết thúc vào Lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh
ngày 02.02.2016.
Sau khi tham khảo ư kiến của Bộ về các Hội Ḍng Đời Sống Thánh Hiến
và các Hội Đời Sống Tông Đồ, cha đă chọn làm mục đích của Năm này
những ǵ thánh Gioan Phaolô II đề nghị cho toàn Hội Thánh khi bắt
đầu thiên niên kỷ thứ ba, khi lặp lại, theo một nghĩa nào đó, những
ǵ ngài đă viết trước đây trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng,
Consecrata Vita: “Các con không chỉ có một lịch sử oai hùng để tưởng
nhớ và kể lại mà c̣n có cả một lịch sử vĩ đại vẫn chưa hoàn tất! Hăy
nh́n về tương lai, nơi Thần Khí đang sai các con đi làm những việc
lớn lao hơn” (số 10).
I. NHỮNG MỤC ĐÍCH CỦA NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
1. Mục đích đầu tiên là nh́n lại quá khứ với ḷng biết ơn. Tất cả
các hội ḍng của ta đều thừa kế một lịch sử phong phú về đặc sủng.
Tại cội nguồn của các đặc sủng ấy ta thấy được bàn tay của Thiên
Chúa, Đấng trong Thần Khí của Người, vẫn luôn kêu gọi một số người
đi theo sát Đức Kitô hơn, đưa Tin Mừng vào trong một lối sống đặc
biệt hơn, đọc các dấu chỉ thời đại với con mắt đức tin và đáp trả
cách sáng tạo các nhu cầu của Hội Thánh. Kinh nghiệm ban đầu này
chín muồi và phát triển, khi đưa các thành viên mới vào trong các
bối cảnh văn hóa và địa lư, và khơi lên những cách thức thực hành
đặc sủng, khơi lên những sáng kiến và các cách diễn tả đức ái tông
đồ cách mới mẻ. Như hạt giống đang mọc thành cây, mỗi ḍng tu đều đă
lớn lên và các cành lá vươn xa.
Suốt Năm này, điều rất thích hợp là mỗi gia đ́nh đoàn sủng suy nghĩ
về cội nguồn và lịch sử của ḿnh, để tạ ơn Thiên Chúa Đấng luôn ban
cho Hội Thánh những ân sủng khác nhau, điểm tô và trang bị cho Hội
Thánh để Hội Thánh làm được mọi sự tốt lành (x. LG 12).
Nh́n lại lịch sử là điều rất quan trọng để duy tŕ căn tính, củng cố
sự hợp nhất với tư cách là một gia đ́nh và cảm thức chung về việc
được thuộc về. Hơn hẳn một bài tập trong khảo cổ học hoặc việc nuôi
dưỡng việc hoài niệm quá khứ, việc nh́n lại này đ̣i phải theo sát
bước chân của các thế hệ trước để am tường những lư tưởng cao cả,
thấy rơ tầm nh́n và các giá trị đă gợi hứng cho họ, khởi đầu với các
vị sáng lập và các cộng đoàn tiên khởi. Theo cách ấy, ta dần dần
thấy được suốt ḍng lịch sử đoàn sủng đă được sống ra sao, đă lóe
lên sự sáng tạo thế nào, đă gặp phải những khó khăn nào và đă khắc
phục các khó khăn ấy cụ thể ra sao. Ta cũng có thể gặp phải những
trường hợp bất nhất, hậu quả của sự hèn yếu của con người và đôi khi
gặp thấy cả việc từ bỏ những khía cạnh quan yếu của đoàn sủng. Nhưng
mọi sự đều có tính xây dựng và nếu nh́n cách tổng quan, mọi sự đều
hành động như một lời kêu gọi hoán cải. Kể chuyện của ḿnh th́ cũng
là ca khen Thiên Chúa và tạ ơn Người v́ mọi ân huệ Người đă ban.
Cách đặc biệt, ta tạ ơn Thiên Chúa v́ năm mươi năm Công Đồng Vatican
II. Công đồng đă cho thấy một “hơi thở” của Chúa Thánh Thần trên Hội
Thánh. Chính v́ thế mà đời sống thánh hiến đă đảm nhận một cuộc hành
tŕnh có kết quả của cuộc canh tân, mà dẫu có mọi thứ bóng tối và
ánh sáng, vẫn là thời của ân sủng, được đánh dấu bằng sự hiện diện
của Chúa Thánh Thần.
Tương tự, Năm Đời Sống Thánh Hiến này cũng là dịp để khiêm tốn thú
nhận sự yếu hèn của ta, với sự tin tưởng vô biên vào Thiên Chúa Đấng
là t́nh yêu (x. 1 Ga 4,8), và trong việc thú nhận ấy, ta cảm nghiệm
được t́nh yêu khoan dung của Thiên Chúa. Ước ǵ Năm nay cũng là dịp
để làm chứng cách hùng hồn và vui mừng cho thế giới này về sự thánh
thiện và sống động hiện diện trong rất nhiều kẻ được kêu gọi theo
Chúa Giêsu trong đời sống thánh hiến.
2. Năm này cũng kêu gọi ta sống giây phút hiện tại với niềm hăng
say. Khi chăm chú lắng nghe những điều Chúa Thánh Thần đang nói với
Hội Thánh hôm nay, việc tưởng nhớ quá khứ với ḷng biết ơn luôn dẫn
ta tới chỗ thực hiện cách trọn vẹn hơn những khía cạnh chủ yếu của
đời sống thánh hiến của ta.
Từ khi khởi sự đời đan tu tới “các cộng đoàn mới” của thời đại ta,
mọi h́nh thức của đời sống thánh hiến đều phát sinh từ lời Thần Khí
kêu gọi đi theo Chúa Giêsu như Tin Mừng dạy (PC 2). Đối với các vị
sáng lập, Tin Mừng là qui luật tuyệt đối, trong khi các qui luật
khác chỉ được đề cập tới như một cách diễn tả Tin Mừng và như một
phương thế để sống Tin Mừng cách viên măn. Đối với các ngài, lư
tưởng là Đức Kitô; các ngài t́m cách hợp nhất nội tâm với Người và
như thế cũng có thể nói như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức
Kitô” (Pl 1,21). Các lời khấn của các ngài đều được nhắm tới như
cách diễn tả cụ thể t́nh yêu say đắm này.
Vấn đề ta phải tự đặt ra suốt Năm này là ta có mở ra và mở ra như
thế nào để Tin Mừng thách thức ta; Tin Mừng có thực sự là “cẩm nang”
cho cuộc sống hằng ngày của ta và cho những quyết định ta được mời
gọi thực hiện chăng. Tin Mừng có tính đ̣i buộc: đ̣i phải được sống
cách triệt để và chân thành. Đọc thôi (dẫu đọc và nghiên cứu Kinh
Thánh là điều quan trọng) vẫn chưa đủ, suy gẫm (hằng ngày ta vẫn làm
cách thích thú) vẫn chưa đủ. Chúa Giêsu xin ta thực hành, đưa lời
của Người ra thực hành trong đời ta.
Một lần nữa, ta phải tự hỏi: Chúa Giêsu có thực sự là t́nh yêu duy
nhất và đầu tiên của ta, như ta đă hứa như thế khi tuyên khấn không?
Chỉ khi Người là t́nh yêu đầu tiên và duy nhất của ta, ta mới được
ban sức mạnh để yêu mọi người ta gặp được trên đường trong sự thật
và ḷng khoan dung. V́ ta sẽ học nơi Chúa Giêsu ư nghĩa và việc thực
hành t́nh yêu. Ta sẽ có thể yêu v́ ta có được con tim của Người.
Các vị sáng lập của ta đă tham dự vào ḷng xót thương của Chúa Giêsu
khi Người thấy đám đông bơ vơ như chiên không người chăn giữ. Giống
như Chúa Giêsu, Đấng nhẹ nhàng lên tiếng với ḷng xót thương, Đấng
chữa lành bệnh nhân, ban bánh cho người đói và hiến tế chính bản
thân ḿnh, các vị sáng lập của ta bằng những cách thức khác nhau
cũng t́m cách phục vụ tất cả những ai đă được Thần Khí sai đến với
ḿnh. Các ngài phục vụ bằng các lời chuyển cầu, bằng việc rao giảng
Tin Mừng, dạy giáo lư, giáo dục, phục vụ những người nghèo khó và
yếu đau… Tính sáng tạo trong đức ái thật bao la, có thể t́m được vô
vàn cách thức mới mẻ để đem sự mới mẻ của Tin Mừng đến cho mọi nền
văn hóa và mọi ngóc ngách của xă hội.
Năm Đời Sống Thánh Hiến thách thức ta kiểm xét lại ḷng trung thành
với sứ vụ đă được ủy thác cho ta. Các thừa tác vụ, các công việc và
sự hiên diện của ta có phù hợp với những ǵ Thần Khí đ̣i hỏi các vị
sáng lập của ta? Các thừa tác vụ ấy hiện có thực hiện trong xă hội
và trong Hội Thánh, đúng như các thừa tác vụ và công việc của các
ngài không? Ta có có được cùng một niềm mê say con người, ta có gần
gũi họ đến độ tham dự vào niềm vui và nỗi buồn và như thế cũng thực
sự hiểu được các nhu cầu của họ và giúp đáp ứng lại những nhu cầu
ấy? Thánh Gioan Phaolô II nói: “Ḷng quảng đại và việc tự hiến ấy
này cũng phải gợi hứng cho các con, các con cái thiêng liêng của các
con, để các con làm sống lại đặc sủng mà nhờ cũng một quyền năng của
Chúa Thánh Thần Đấng đă thức tỉnh các ngài, vẫn không ngừng được làm
cho phong phú và thích nghi, trong khi vẫn không được đánh mất một
đặc tính đốc đáo nào của các ngài. Việc đưa các đặc sủng này vào
việc phục vụ Hội Thánh và hoạt động cho Vương Quốc của Đức Kitô đến
trong sự viên măn hoàn toàn tùy thuộc các con.[1]
Việc nhắc lại cội nguồn của ta luôn tỏa sáng trên một khía cạnh khác
của đời sống thánh hiến. Các vị sáng lập của ta bị lôi cuốn bởi sự
hợp nhất của các Tông Đồ với Đức Kitô và bởi t́nh huynh đệ là đặc
điểm của cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Trong khi thiết lập
cộng đoàn riêng của ḿnh, mỗi vị đều t́m cách tái tạo lại những
khuôn mẫu của việc sống Tin Mừng này, một ḷng một trí, hân hoan
trong sự hiện diện của Chúa (PC 15).
Sống giây phút hiện tại với niềm hăng say có nghĩa là trở nên “các
chuyên gia của sự hiệp thông”, “các chứng nhân và kiến trúc sưcủa
‘kế hoạch của sự hợp nhất’, là chóp đỉnh vinh quang của lịch sử nhân
loại trong chương tŕnh của Thiên Chúa”.[2] Trong xă hội bị phân cực
này, nơi các nền văn hóa đang gặp phải khó khăn trong việc cùng sống
với nhau, nơi những kẻ yếu thế gặp phải sự đàn áp, nơi đầy day những
bất b́nh đẳng, ta được mời gọi đưa ra một khuôn mẫu cụ thể của cộng
đoàn, một khuôn mẫu mà, nhờ biết nh́n nhận phẩm giá của mỗi người và
chia sẻ những ân huệ riêng của ḿnh, người ta có thể sống với nhau
như anh chị em.
V́ thế, các con hăy là những người hiệp thông! Hăy can đảm hiện diện
giữa xung đột và căng thẳng, như một dấu chỉ đáng tin cậy của sự
hiện diện của Thần Khí Đấng luônkhơi lên trong ḷng người khát vọng
muốn mọi người nên một (x. Ga 17,21). Hăy sống bí quyết của sự gặp
gỡ, một bí quyết đ̣i hỏi “khả năng nghe, lắng nghe tha nhân; khả
năng cùng nhau t́m kiếm những cách thức và phương tiện”.[3] Hăy sống
dưới ánh sáng của mối tương quan yêu thương của Ba Ngôi (x. 1 Ga
4,8), khuôn mẫu cho mọi mối tương quan liên vị.
3. Ấp ủ tương lai với niềm hy vọng là mục đích thứ ba của Năm này.
Tất cả chúng ta đều biết những khó khăn các h́nh thức khác nhau của
đời sống thánh hiến đang có kinh nghiệm: ơn gọi giảm sút và các
thành viên có tuổi gia tăng, nhất là tại thế giới phương Tây; những
vấn đề kinh tế nảy sinh từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới;
những vấn đề quốc tế hóa và toàn cầu hóa; những đe dọa do chủ nghĩa
tương đối khơi lên và cảm thức về sự cô lập và sự không thích hợp về
mặt xă hội… Nhưng chính v́ những t́nh trạng không chắc chắn ấy,
những t́nh trạng ta đang chia sẻ với nhiều người đương thời mà ta
được kêu gọi thực hành đức cậy trông, hoa trái của đức tin vào vị
Chúa của lịch sử, Đấng vẫn tiếp tục nói với ta: “Đứng sợ… V́ Thầy
đang ở với anh em” (Gr 1,8).
Đức cậy trông này không được cậy dựa vào các con số thống kê và
những thành tựu mà vào Đấng nơi Người ta tin tưởng (x. 2 Tm 1,2),
Đấng mà “đối với Người, không có ǵ là không thể làm được” (Lc
1,37). Đây là một đức cậy không làm thất vọng; là đức cậy có thể làm
cho đời sống thánh hiến vẫn viết lên được trang sử hào hùng cho
tương lai. Đó là một tương lai ta phải luôn hướng tới, v́ ư thức
rằng Chúa Thánh Thần luôn khích lệ ta để Người vẫn có thể cùng ta
thực hiện những điều vĩ đại.
V́ thế các con đừng để bị cám dỗ nh́n các sự việc theo con số và sự
hiệu năng, và đừng quá tin vào sức mạnh của ḿnh. Trong việc kiểm
tra các chân trời của cuộc sống ḿnh và giây phút hiện tại, hăy thận
trọng và tỉnh thức. Cùng với Đức Bênêđictô XVI, cha tha thiết xin
các con đừng “gia nhập hàng ngũ các tiên tri buồn, những người công
bố sự khánh tận và vô nghĩa của đời sống thánh hiến trong Hội Thánh
của ta hôm nay; nhưng hăy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và cầm lấy vũ khí
của ánh sáng – như thánh Phaolô khích lệ (x. Rm 13,11-14) – hăy luôn
tỉnh thức và canh thức”.[4] Ta hăy không ngừng bắt đầu lại cách mới
mẻ, với niềm tín thác vào Chúa.
Cha đặc biệt muốn nói đôi lời với các bạn trẻ trong các con. Các con
là hiện tại, v́ các con đă đóng vai tṛ chủ động trong đời sống của
hội ḍng các con rồi, khi cống hiến tất cả sự tươi trẻ và quảng đại
của “sự sẵn sàng” của các con. Nhưng đồng thời các con cũng là tương
lai, v́ sớm muộn ǵ các con cũng được mời gọi đảm nhận những vai tṛ
lănh đạo trong đời sống, trong việc đào tạo, phục vụ và sứ vụ của
cộng đoàn ḿnh.Năm này phải thấy các con tham gia cách chủ động vào
cuộc đối thoại với thế hệ trước. Trong sự hiệp thông huynh đệ các
con sẽ được phong phú nhờ kinh nghiệm và sự khôn ngoan của họ, trong
khi đồng thời các con cũng thành sự hứng khởi cho họ, nhờ nghị lực
và nhiệt tâm của các con, để nắm bắt lại lư tưởng nguyên thủy. Theo
cách này, toàn cộng đoàn có thể cùng nhau t́m ra những cách sống Tin
Mừng mới và đáp ứng cách hiệu quả hơn nhu cầu làm chứng và loan
báo.
Cha rất hạnh phúc biết rằng suốt Năm này các con sẽ có cơ hội gặp gỡ
các tu sĩ trẻ của các hội ḍng khác. Ước ǵ những cuộc gặp gỡ này
trở thành một cách thế liên tục để nuôi dưỡng sự hiệp thông, sự nâng
đỡ lẫn nhau và t́nh đoàn kết.
II. NHỮNG KỲ VỌNG ĐỐI VỚI NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Cha hy vọng ǵ trong năm hồng ân đối với đời sống thánh hiến này?
1. Cha hy vọng câu nói xưa sau đây lúc nào cũng đúng: “Ở đâu có tu
sĩ ở đó có niềm vui”. Ta được kêu gọi nhận biết và chứng tỏ rằng
Thiên Chúa có thể đổ hạnh phúc tràn đầy ḷng ta; ta không cần t́m
kiếm hạnh phúc ở đâu khác; t́nh huynh đệ đích thực t́m được trong
các cộng đoàn ta bao giờ cũng gia tăng niềm vui; và việc hiến toàn
thân trong việc phục vụ Hội Thánh, các gia đ́nh và người trẻ, người
già và nghèo khó bao giờ cũng đem cho ta một sự hoàn tất chính ḿnh
suốt đời.
Không ai trong ta được buồn rầu, chán nản và bất măn, v́ “một môn đệ
buồn là một môn đệ đáng buồn”. Như mọi người khác, ta cũng có những
khó khăn, rắc rối, những đêm đen của linh hồn, những chán chường và
yếu nhược, cũng có kinh nghiệm về sự chậm chạp khi tuổi tác gia
tăng. Nhưng trong tất cả những thứ ấy ta vẫn phải có thể khám phá ra
“niềm vui tuyệt hảo”. V́ chính tại những hoàn cảnh ấy mà ta biết
cách nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô, Đấng đă trở nên giống hệt như
ta trong mọi sự và vui mừng nhận ra rằng ta đang được đồng h́nh,
đồng dạng với Người, Đấng, v́ yêu thương, đă không khước từ những
khổ đau của thập giá.
Trong một xă hội đề cao sự tôn sùng hiệu năng, sự thích hợp và thành
công, một xă hội coi thường người nghèo và loại bỏ “những người thua
cuộc”, ta có thể làm chứng bằng chính đời sống ḿnh về sự thật của
các lời Kinh Thánh sau: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr
12,10).
Ta có thể áp dụng những lời của Đức Bênêđictô XVI, cha đă trích dẫn
trong Tông Huấn Evangelii Gaudium: “Hội Thánh phát triển không phải
v́ đă thâu nạp được nhiều người theo đạo mà v́ sự hấp dẫn” (số 14).
Đời sống thánh hiến sẽ không triển nở do kết quả của những chương
tŕnh ơn gọi hoành tráng, mà v́người trẻ ta gặp gỡ thấy ta hấp dẫn,
v́ họ thấy ta là những người hạnh phúc! Tương tự, hiệu quả của việc
tông đồ của đời sống thánh hiến không tùy thuộc vào tính hiệu năng
của các phương pháp mà tùy thuộc vào bằng chứng hùng hồn của cuộc
sống các con, một cuộc sống tỏa ra niềm vui và vẻ đẹp của việc sống
Tin Mừng và đi theo Đức Kitô tới cùng.
Như cha đă nói với các thành viên của các phong trào trong Hội Thánh
vào Đêm Canh Thức Lễ Chúa Thánh Thần năm ngoái: “Cách căn bản, sức
mạnh của Hội Thánh là việc sống nhờ Tin Mừng và làm chứng cho đức
tin của ta. Hội Thánh là muối đất; Hội Thánh là ánh sáng trần gian.
Hội Thánh được kêu gọi làm cho men của Nước Thiên Chúa hiện diện
trong xă hội và Hội Thánh làm điều này trước hết nhờ chứng tá của
ḿnh, chứng tá của t́nh huynh đệ, của t́nh liên đới và của việc chia
sẻ ḿnh với những người khác (18.05.2013).
2. Cha mong các con “đánh thức thế giới này”, v́ dấu chỉ đặc trưng
của đời sống thánh hiến là tính ngôn sứ. Như cha đă nói với các Bề
Trên Tổng Quyền: “Việc sống Tin Mừng cách triệt để không chỉ dành
cho tu sĩ: đó là điều đ̣i hỏi hết mọi người. Nhưng tu sĩ theo Chúa
cách đặc biệt, cách có tính ngôn sứ”. Đây là ưu tiên duy nhất hiện
ta đang cần: “là ngôn sứ làm chứng cho cách thức Chúa Giêsu đă sống
trên trần gian… tu sĩ không bao giờ được bỏ tư cách ngôn sứ”
(29.11.2013).
Các ngôn sứ đón nhận từ nơi Thiên Chúa khả năng xem xét thời đại
ḿnh đang sống và giải thích các biến cố: họ giống như các lính canh
thức trắng đêm và cảm nhận được b́nh minh đang đến (x. Is 21,11-12).
Các ngôn sứ biết Thiên Chúa và biết con người là anh chị em ḿnh. Họ
có thể nhận diện và kết án sự gian ác của tội lỗi và bất công. V́ họ
tự do, nên họ không chịu ơn ai trừ Thiên Chúa và họ cũng chẳng thích
ai ngoài Thiên Chúa. Các ngôn sứ có khuynh hướng đứng về phía người
nghèo và yếu thế, v́ họ biết chính Thiên Chúa cũng đứng về phía ấy.
V́ thế cha tin tưởng rằng thay v́ sống trong một xă hội không tưởng
nào đó, các con sẽ t́m được những cách tạo ra “những không gian xen
kẽ”, nơi việc bỏ ḿnh, t́nh huynh đệ, việc ấp ủ những khác biệt và
ḷng yêu thương nhau có thể phát triển. Các đan viện, các cộng đoàn,
các trung tâm linh đạo, các trường học, bệnh viện, các gia đ́nh –
tất cả phải là nơi t́nh bác ái và sáng tạo nẩy sinh từ đoàn sủng của
các con đă xuất hiện và xuất hiện với sự sáng tạo không ngừng, cũng
sẽ phải tiếp tục xuất hiện. Những nơi ấy phải không ngừng làm cho xă
hội được dậy men Tin Mừng, phải là “một thành phố trên cao”, làm
chứng cho sự thật và quyền năng của lời Chúa Giêsu.
Đôi khi, như Êlia và Giôna, các con có thể cảm thấy bị cám dỗ chạy
trốn, từ bỏ nhiệm vụ ngôn sứ v́ đó là một nhiệm vụ quá đ̣i hỏi, quá
chán chường hoặc rơ ràng không có kết quả. Thiên Chúa đă đối xử với
Giêrêmia thế nào, Người cũng khích lệ các con như thế: “Đừng sợ họ,
v́ Ta ở với con để giải thoát con” (Gr 1,8).
3. Hệt như những người được hiến thánh khác, các nam nữ tu sĩ được
gọi, như cha đă nói, là “những chuyên viên hiệp thông”. V́ thế, cha
hy vọng rằng “linh đạo hiệp thông”, đă được thánh Gioan Phaolô II
nhấn mạnh” sẽ trở thành hiện thực và các con sẽ đi đầu trong việc
đáp lại “những thách thức lớn đang ở trước mặt ta” trong thiên niên
kỷ mới này: “làm cho Hội Thánh thành nhà và thành trường hiệp
thông”.[5] Cha tin chắc rằng trong Năm này các con sẽ tận dụng mọi
nỗ lực để làm cho lư tưởng của t́nh huynh đệ các vị sáng lập của các
con đă theo đuổi trải rộng khắp nơi, hệt như các ṿng tṛn đồng
tâm.
Hiệp thông được sống trước hết trong các cộng đoàn riêng của mỗi hội
ḍng. Cuối cùng, cha xin các con suy nghĩ về những nhận định thường
xuyên của cha, đó là những cách hành xử như phê b́nh, chỉ trích, nói
hành, nói xấu, ghen tỵ, tức tối, hận thù không được quyền có chỗ
trong các nhà của ta. Khi ấy, con đường đức ái trước mặt ta sẽ mở
rộng thênh thang, v́ bao hàm việc chấp nhận nhau và quan tâm đến
nhau, thực hành sự hiệp thông của cải cả vật chất lẫn tinh thần,
việc sửa lỗi huynh đệ và tôn trọng những người yếu đuối… đây là “bí
quyết để sống với nhau” một bí quyết làm cho đời ta thành “một cuộc
hành hương thánh thiêng”.[6] Ta cần tự hỏi về cách ta liên hệ với
những con người thuộc các nền văn hóa khác nhau, khi các cộng đoàn
của ta đang ngày một trở thành các cộng đoàn quốc tế. Ta có thể làm
ǵ để mỗi thành viên có thể tự do nói lên những ǵ họ nghĩ, để họ
được chấp nhận với những tài năng đặc biệt của họ và trở thành những
người đồng trách nhiệm trọn vẹn?
Cha cũng hy vọng sự hiệp thông cũng phát triển giữa các thành viên
của các hội ḍng khác nhau. Năm này có phải là dịp để ta bước cách
can đảm hơn ra khỏi những nơi ở của các hội ḍng riêng và làm việc
chung với nhau, ở mức độ địa phương và toàn cầu, về những dự án liên
quan tới đào tạo, phúc âm hóa và các hoạt động xă hội chăng? Điều
này sẽ làm cho chứng tá có tính ngôn sứ có kết quả hơn. Sự hiệp
thông và việc gặp gỡ giữa các đoàn sủng và ơn gọi khác nhau có thể
mở ra một con đường hy vọng. Không ai đóng góp cho tương lai cách
đơn độc bằng những nỗ lực riêng của một ḿnh ḿnh, nhưng bằng cách
thấy ḿnh như một phần của sự hiệp thông đích thật, của việc chăm
chú lắng nghe và trợ giúp lẫn nhau. Sự hiệp thông ấy giữ ta khỏi bị
tiêm nhiễm bởi căn bệnh chỉ biết ḿnh.
Những người được thánh hiến cũng được mời gọi hợp tác đích thật với
những ơn gọi khác trong Hội Thánh, bắt đầu với các linh mục và giáo
dân, để “trải rộng linh đạo hiệp thông, trước hết trong đời sống nội
tâm và sau đó trong cộng đoàn Hội Thánh và thậm chí c̣n vượt ra bên
ngoài các ranh giới của Hội Thánh nữa.”[7]
4. Cha cũng kỳ vọng nơi các con điều cha đă xin mọi thành phần của
Hội Thánh: ra khỏi ḿnh và đi tới các vùng ngoại biên của cuộc sống.
“Hăy đi khắp thế gian”; đây là những lời cuối cùng Chúa Giêsu nói
với những kẻ theo Người và cũng là những lời Người đang tiếp tục nói
với ta (x. Mc 16,15). Toàn thế giới này đang chờ đợi ta: những người
đă mất hết hy vọng, các gia đ́nh đang gặp khó khăn, các trẻ em bị bỏ
rơi, những người trẻ không có tương lai, những người già cả, ốm đau
và những người bị bỏ rơi, những người giàu có về vật chất nhưng nội
tâm lại chẳng có ǵ, những người đang t́m kiếm mục đích trong cuộc
sống, khao khát Thiên Chúa.
Đừng khép ḿnh lại, đừng để cho những căi vă vụn vặt đè bẹp ḿnh,
đừng giam hăm ḿnh trong những vấn đề của ḿnh. Nếu các con ra đi và
giúp người khác giải quyết vấn đề của họ và loan báo Tin Mừng, th́
những vấn đề ấy sẽ được giải quyết hết. Cho đi sự sống ḿnh, các con
sẽ có được sự sống, cho đi niềm hy vọng, các con sẽ có được hy vọng,
cho đi t́nh yêu, các con sẽ có được t́nh yêu.
Cha xin các con làm việc cách cụ thể trong việc đón tiếp những người
tỵ nạn, gần gũi những người nghèo khổ và t́m ra những cách thức sáng
tạo để dạy giáo lư, loan báo Tin Mừng và dạy người ta cầu nguyện. V́
vậy, ta hy vọng rằng các con có thể sắp xếp các cơ chế cách hợp lư,
những nhà lớn phải tổ chức lại để đáp ứng cách tốt hơn những đ̣i ḥi
của việc phúc âm hóa, và đức ái hiện nay và các việc tông đồ phải
thích nghi với các nhu cầu mới.
5. Cha hy vọng rằng mỗi h́nh thức của đời sống thánh hiến sẽ phải tự
hỏi Thiên Chúa và con người đang đỏi hỏi ḿnh điều ǵ?
Các đan viện và các nhóm từ nguyên thủy đă là những nhóm chiêm niệm
có thể gặp gỡ hoặc nói cách khác tham gia vào việc trao đổi kinh
nghiệm về đời sống cầu nguyện, về những cách thức đào sâu sự hiệp
thông với toàn Hội Thánh, về việc nâng đỡ các Kitô hữu bị bắt bớ và
đón tiếp, cứu trợ những người đang t́m kiếm một đời sống thiêng
liêng sâu xa hơn hay đang cần sự nâng đỡ về luân lư hoặc vật chất.
Những hội ḍng dấn thân làm việc bác ái, dạy dỗ và phát triển văn
hóa, những hội ḍng dấn thân cho việc rao giảng Tin Mừng hoặc thực
hiện các thừa tác vụ mục vụ cũng có thể làm những việc ấy. Các Tu
Hội Đời, có các thành viên ở mọi ngóc ngách của xă hội cũng có thể
làm như thế. Sự sáng tạo của Thần Khí vẫn luôn làm phát sinh các lối
sống và các cách hoạt động đa dạng đến độ khó có thể liệt kê hết
được hoặc khó có thể đưa vào những khuôn mẫu có sẵn. V́ thế, cha
không thể nói với mỗi và mọi dạng thức đoàn sủng. Nhưng suốt Năm này
không ai được miễn chước khỏi việc nghiêm túc kiểm xét lại sự hiện
diện của ḿnh trong đời sống Hội Thánh và khỏi việc đáp ứng lại
những đ̣i hỏi mới vẫn không ngừng đ̣i hỏi ta, đáp lại những tiếng
rên la của những người nghèo khổ.
Chỉ khi quan tâm như thế đến các nhu cầu của thế giới này và chỉ khi
ngoan ngùy với sự can thiệp của Thần Khí, Năm Đời Sống Thánh Hiến
này mới trở nên một thời ân sủng đích thật, một thời điểm ắp đầy ân
sủng của Thiên Chúa, một thời biến đổi.
III. NHỮNG CHÂN TRỜI CỦA NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
1. Trong thư này, cha không chỉ muốn nói với những người được thánh
hiến mà c̣n muốn nói tới giáo dân, những người đang chia sẻ với họ
những lư tưởng, tinh thần và sứ vụ. Một số Hội Ḍng có một truyền
thống lâu dài theo lănh vực này, trong khi những hội ḍng khác chỉ
mới có đây thôi. Quả thế, chung quanh mỗi gia đ́nh tu tŕ, mỗi Hội
Ḍng Đời Sống Tông Đồ và mỗi Tu Hội Đời, bao giờ cũng có một gia
đ́nh lớn hơn, một “gia đ́nh đoàn sủng”, bao gồm một số Hội Ḍng tự
đồng hóa với cùng một đoàn sủng và nhất là các tín hữu giáo dân,
những người cảm thấy được gọi tham dự vào cùng một thực tại có tính
đoàn sủng, với tư cách giáo dân.
Cha khích lệ các con, với tư cách là giáo dân, sống Năm dành cho Đời
Sống Thánh Hiến này như một ân huệ có thể làm cho các con ư thức hơn
về ân sủng chính các con đă lănh nhận. Các con hăy cử hành năm này
với toàn “gia đ́nh” ḿnh để các con có thể lớn lên và cùng nhau đáp
lại những can thiệp của Thần Khí trong xă hội hôm nay. Vào một số
dịp khi những người được thánh hiến thuộc các Hội Ḍng khác nhau họp
lại, các con hăy sắp xếp để cũng có mặt với họ hầu làm bật lên ân
huệ duy nhất của Thiên Chúa. Như thế, các con sẽ biết được những
kinh nghiệm của các gia đ́nh đoàn sủng và các nhóm giáo dân khác, và
như thế các con cũng có cơ hội để nâng đỡ nhau và làm cho nhau phong
phú.
2. Năm dành cho Đời Sống Thánh Hiến này không chỉ liên quan tới
những người được thánh hiến mà tới toàn Hội Thánh. V́ thế, cha xin
toàn dân Kitô giáo ư thức hơn về ân huệ này, đó là sự có mặt của
nhiều người được thánh hiến, những người thừa tự của các vị đại
thánh đă viết lên lịch sử Kitô giáo. Hội Thánh sẽ ra sao nếu không
có thánh Biển Đức và thánh Basiliô, không có thánh Augustinô và
Bernard, thánh Phanxicô và thánh Đaminh, thánh Ignatiô Loyola và
thánh Têrêsa Avila, thánh Angelica Marici và thánh Vincent Phaolô.
Danh sách này sẽ c̣n nữa, cho tới thánh Gioan Don Bosco và Chân
Phước Têrêsa Calcutta. Như Chân Phước Phaolô VI cho thấy: “Không có
dấu chỉ cụ thể này th́ sẽ có một mối nguy là đức ái vẫn luôn làm
sinh động toàn Hội Thánh sẽ trở nên lạnh giá, sự nghịch lư có tính
cứu độ của Tin Mừng sẽ bị cùn nhụt và “muối” của đức tin sẽ lạt đi
trong một thế giới đang trải qua quá tŕnh tục hóa này” (Evangelica
Testificatio 3).
V́ thế cha mời mọi cộng đoàn Kitô hữu cảm nghiệm về Năm này trước
hết như thời điểm tạ ơn Chúa và như một kư ức đầy ḷng biết ơn về
mọi ân huệ ta vẫn liên tục nhận được, tạ ơn sự thánh thiện của các
vị sáng lập và từ sự trung thành với đoàn sủng của các ngài mà nhiều
người được thánh hiến đă cho thấy, cha xin tất cả các con hăy lại
gần những người ấy, gần hết mức có thể, để chia sẻ những khó khăn
của họ và để trợ giúp họ hết mức có thể trong các thừa tác vụ và
công việc của họ, v́ những thừa tác vụ và những công việc ấy cuối
cùng ra cũng là những thừa tác vụ và công việc của Hội Thánh. Hăy
cho họ thấy tấm thịnh t́nh và sự ấm cúng mà toàn dân Kitô giáo đang
dành cho họ.
Chúng ta tạ ơn Chúa v́ Năm Đời Sống Thánh Hiến xảy ra cùng lúc với
biến cố Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đ́nh. Đời sống gia đ́nh và
đời sống thánh hiến là hai ơn gọi mang đến sự giàu có phong phú và
ơn phúc cho tất cả mọi người. Cả hai đều là nơi chốn cho sự phát
triển con người xảy ra qua các mối tương quan, và cả hai cũng đều là
nơi chốn cho việc loan báo Tin Mừng. Ơn gọi này trợ giúp cho ơn gọi
kia.
3. Trong lá thư này cha không ngần ngại nói với những người được
thánh hiến và các thành viên của những hội và những cộng đoàn thuộc
các Hội Thánh của các truyền thống ngoài truyền thống Công giáo. Lối
sống đan tu là một phần di sản của Hội Thánh chưa bị phân chia và
hiện vẫn rất sống động trong cả các Hội Thánh Chính Thống lẫn Hội
Thánh Công giáo. Truyền thống đan tu và những kinh nghiệm khác sau
này từ thời mà Hội Thánh tại phương Tây vẫn c̣n hợp nhất, đă khơi
lên những sáng kiến tương tự trong các cộng đoàn Hội Thánh của
truyền thống Cải Cách. Những cộng đoàn này vẫn tiếp tục sản sinh ra
những cách diễn tả cộng đoàn và việc phục vụ đầy t́nh huynh đệ.
Bộ các Hội Ḍng Đời Sống Thánh Hiến và Hội Đời Sống Tông Đồ đă phác
thảo một số sáng kiến làm cho các cuộc gặp gỡ giữa những thành phần
của các h́nh thức đời sống thánh hiến và huynh đệ trong các Hội
Thánh khác nhau. Cha hết ḷng khích lệ những cuộc gặp gỡ ấy như
phương thế để gia tăng sự hiểu biết, tôn trọng và hợp tác với nhau,
để phong trào đại kết của đời sống thánh hiến có thể tỏ ra hữu ích
cho cuộc hành tŕnh lớn hơn tiến về sự hợp nhất của mọi Hội Thánh.
4. Ta cũng không thể quên rằng hiện tượng của đời đan tu và của các
cách diễn tả khác nhau của t́nh huynh đệ tu tŕ vẫn luôn hiện diện
trong mọi tôn giáo lớn. Có những ví dụ, một số tồn tại lâu đời, về
cuộc đối thoại giữa các đan viện liên quan tới Hội Thánh Công giáo
và một số các truyền thống tôn giáo lớn. Cha tin rằng Năm Đời Sống
Thánh Hiến sẽ là cơ hội để nh́n lại tiến bộ đă làm được, để làm cho
những người được hiến thánh ư thức về cuộc đối thoại này và để xét
xem có thể có những bước nào tiến đến sự hiểu biết và hợp tác với
nhau hơn trong nhiều lănh vực chung của việc phục vụ đời sống con
người.
Cùng đi với nhau bao giờ cũng đem lại sự phong phú và có thể mở ra
những con đường mới đưa tới những tương quan giữa các dân tộc và các
nền văn hóa, mà hiện nay có vẻ rất khó khăn.
5. Cuối cùng, cách đặc biệt, tôi muốn nói với các anh em giám mục
của tôi. Ước ǵ Năm này là dịp để sẵn sàng và vui mừng chấp nhận các
hội ḍng của đời sống thánh hiến như nguồn vốn thiêng liêng đóng góp
cho lợi ích của toàn thân ḿnh Đức Kitô (x. Lumen Gentium, 43) chứ
không chỉ là đóng góp cho gia đ́nh tu sĩ. “Đời sống thánh hiến là
một quà tặng cho Hội Thánh, phát sinh từ Hội Thánh, lớn lên trong
Hội Thánh và hoàn toàn hướng về Hội Thánh”.[8] V́ lư do này, chính
v́ là một quà tặng cho Hội Thánh, nên đời sống thánh hiến không phải
là một thực tại bị cô lập hoặc loại ra bên ngoài, nhưng là một phần
của Hội Thánh cách sâu thẳm. Đời sống thánh hiến ở tại trung tâm của
Hội Thánh, là một yếu tố quyết định của sứ vụ của Hội Thánh, v́ đời
sống ấy diễn tả bản chất sâu xa nhất của ơn gọi Kitô hữu và khát
vọng muốn hợp nhất với vị Lang Quân duy nhất của Hội Thánh với tư
cách là Hiền Thê. Như thế “đời sống ấy cách tuyệt đối thuộc về… đời
sống thánh thiện” của Hội Thánh (LG 44).
Dưới ánh sáng này, tôi xin anh em, các vị Mục Tử của các Hội Thánh
đặc biệt, hăy liệu sao để nâng cao các đoàn sủng khác nhau trong các
cộng đoàn bất kể đă có từ lâu hay mới có. Tôi xin anh em làm việc
này bằng sự nâng đỡ và khích lệ, bằng sự trợ giúp của anh em trong
việc phân định và sự gần gũi dịu hiền và yêu thương của anh em đối
với những hoàn cảnh đau khổ và yếu đuối, trong những hoàn cảnh ấy
một số người được thánh hiến có thể đang gặp phải. Trước hết, anh em
hăy làm việc này bằng cách dạy dỗ Dân Thiên Chúa về các giá trị của
đời sống thánh hiến để nét đẹp và sự thánh thiện của đời sống ấy có
thể chiếu tỏa trong Hội Thánh.
Cha kư thác Năm Đời Sống Thánh Hiến này cho Đức Maria, Trinh Nữ lắng
nghe và chiêm niệm, người môn đệ đầu tiên của con yêu dấu ḿnh. Ta
hăy nh́n lên mẹ, người con dấu ái của Chúa Cha, đă được ban cho mọi
ân sủng, v́ là khuôn mẫu siêu vời cho mọi người đang theo Đức Kitô
trong ḷng yêu mến Thiên Chúa và phục vụ đồng loại ḿnh.
Cuối cùng, cha hợp nhất với các con trong niềm tri ân v́ những ân
huệ và ánh sáng, Chúa luôn muốn ban cho để ta được phong phú và cha
đồng hành với các con với Phép Lành Ṭa Thánh của cha.
Từ Vatican, ngày 21 tháng 11 năm 2014, Lễ Dâng Ḿnh của Đức Trinh Nữ
Maria.
Phanxicô
Linh mục Đaminh Nguyễn Đức Thông, chuyển dịch.
---------------------
[1] Apostolic Letter to the Religious of Latin America on the
occasion of the Fifth Centenary of the Evangelization of the New
WorldLos caminos del Evangelio (29 June 1990), 26.
[2] SACRED CONGREGATION FOR RELIGIOUS AND SECULAR INSTITUTES,
Religious and Human Promotion (12 August 1980), 24: L’Osservatore
Romano, Suppl., 12 November 1980, pp. I-VIII.
[3] Address to Rectors and Students of the Pontifical Colleges and
Residences of Rome (12 May 2014).
[4] POPE BENEDICT XVI, Homily for the Feast of the Presentation of
the Lord (2 February 2013).
[5] Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 43.
[6] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 87
[7] JOHN PAUL II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Vita Consecrata
(25 March 1996), 51.
[8] BISHOP J.M. BERGOGLIO, Intervention at the Synod on the
Consecrated Life and its Mission in the Church and in the World, XVI
General Congregation, 13 October 1994.
[1] Tông Thư Los caminos del Evangelio, cho các Tu Sĩ Nam Nữ Châu Mỹ
Latin dịp kỷ niệm 500 Năm rao giảng Tin Mừng của Tân Lục Địa
(29.06.1990), 26.
[2] Thánh Bộ Các Tu Sĩ Và Các Hiệp Hội Tu Đời, Các Tu Sĩ Và Việc
Thăng Tiến Con Người, ngày 12.08.1980, 24: trong Báo L’Osservatore
Romano, Suppl. 12.11.1980,tr. I-VIII.
[3]Bài Diễn Văn cho các Viện Trưởng và các Sinh Viên các Học Viện
Giáo Hoàng, và Các Nhà và Cơ Sở ở Roma (12.05.2014).
[4] Bài Giảng Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ(02.02.2013).
[5] Tông ThưNgàn Năm Thứ Ba Đang Đến(06.01.2001), 43.
[6] Tông Huấn Niềm Vui Của Tin Mừng(24.11.2013), 87.
[7] Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Thế
Giới, Đời Sống Thánh Hiến (25.03.1996), 51.
[8] Đức Cha J. M. Bergoglio, Bài Phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám
mục Thế Giới về Đời sống Thánh hiến và sứ mạng của họ trong Giáo Hội
về trên thế giới, Đại hội XVI, 13.10.1994.