Hồi kư của Tâm Phương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Muôn vàn tri ân Vị Linh Hướng cho cuộc đời
Sống Thánh Chứng Nhân của tôi
  

Cũng viết tặng những người anh Đồng Công

đă giúp đỡ và đồng hành với tôi

Sống Lư Tưởng Thánh Đồng Công:

Anh Nguyễn Đức Nghiêm và Nguyễn Châu Diên,

2 người anh cùng lớp tu (1964), lớp học (Đệ Tứvà lớp khấn (IX);

Anh Nguyễn An Trị, Giám Đốc Đệ Tử Viện Đồng Công (1964-1966);

Anh Trần Trung Thần, Giám Thị Đệ Tử Viện Đồng Công (1964-1966);

Anh Nguyễn Huy Chương và Bùi Anh Tuấn,

Đội Trưởng Đệ Tử Viện (1964-1965 / 1965 -1966);

Anh Nguyễn Đức Kiên,

người anh đổi tên và là vị Giám Tỉnh cuối cùng (1966, 1982);

Anh Lê An Đại, Phó Giám Thử (1966);

Anh Phạm Tiến Đức, Phó Giám Tập (1966-1967);

Anh Đoàn Phú Xuân, Giáo Sư Hiến Pháp Tục Lệ (1966-1967);

Anh Phan Thiện Giản, vị giáo sư Latinh được chỉ định (1974);

Anh Vũ Vĩnh Quí, người anh tổ phụ thân hữu Đồng Công.


Cuộc Hạnh Ngộ Cuối Cùng

 

Phải, vị linh hưởng khả kính khả ái của tôi là Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ đă vĩnh viễn ra đi về với Chúa vào ngày 21/6/2007, ngày mà đúng 43 năm trước, 21/6/1964, tôi đă bắt đầu tập tễnh theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công từ đệ tử viện của nhà ḍng ở Thủ Đức.

 

Tôi đă ước ao được gặp vị linh hướng duy nhất của cuộc đời tôi này một lần cuối cùng, nhất là vào năm ngài được đúng 100 tuổi. Và Thiên Chúa quả thực đă đáp lại ước vọng hết sức thiết tha và chân t́nh của tôi, khi cho tôi được gặp ngài vào chiều Thứ Sáu mùng 7 tháng 7 năm 2006, từ 4 giờ đến 4 giờ 30 chiều, trong pḥng riêng của ngài. Một tháng sau, vào chính ngày lễ Thánh quan thày Đaminh của ngài, 8/8/2006, ngài đă được đưa vào bệnh viện v́ bị tai biến mạch máu năo, và trở nên tê liệt và hầu như bị cấm khẩu cho đến khi qua đời. Thật là may cho tôi, tôi đă được diễm phúc gặp lại vị linh mục dẫn dắt tôi theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công này tại pḥng riêng của ngài, sau 31 năm xa cách. Ngài vẫn c̣n nhớ tôi.

 

Đúng thế, hôm ấy hai cha con chúng tôi đă nằm để hàn huyên tâm sự với nhau. Theo thói quen hăm ḿnh không thay đổi, ngài vẫn nằm trên nền nhà. Hôm ấy, v́ yếu bệnh, ngài phải nằm ban ngày và nằm nghiêng về phía bên phải, lưng quay vào tường, để nói chuyện với tôi. Tôi cũng đă nằm sấp, hướng mặt về ngài, để nói chuyện với ngài. Ngày xưa, khi c̣n được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với nhau, một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên gần pḥng của ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên nền nhà ở trong pḥng của ngài, cho đến khi hết chuyện. 

 

Phải, hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết sức thân thương ban đầu, tôi đă lợi dụng câu ngài hỏi tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu nhập cuộc. Tôi thưa ngài rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho ngài nghe t́nh h́nh sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới thánh đức. Thế là ngài đă thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ hết, có lúc ngài đă vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi c̣n nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn như sau: “Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức tin mà không biết…. Ở bên Mỹ mà c̣n giữ được đức tin là một phép lạ đấy!”

 

Phần tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai qú xuống xin ngài ban phép lành tràn đầy ân phúc từ cuộc đời thánh đức của ngài, như xin ngài tiếp tục truyền nội lực thánh thiện của ngài cho ḿnh, tôi đă nói những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt) sau đây (vẫn theo tinh thần b́nh dân gọi nhau là anh em của Ḍng Đồng Công): "Em cùng gia đ́nh em về thăm Anh nhân dịp mừng Anh 100 tuổi. Trước hết để tỏ ḷng tri ân cảm tạ Anh. V́ không có Anh em đă không được như ngày hôm nay, và không có được một gia đ́nh như bây giờ. Tuy em không c̣n chính thức là một tu sĩ Đồng Công trong Ḍng, song em vẫn tiếp tục theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn cố gắng sống theo những ǵ Anh Cả đă truyền đạt cho em. Xin anh cầu cho em để em có thể trở thành một 'Đồng Công Nằm Vùng', để Tinh Thần Đồng Công có thể  thấm sâu vào ḷng đời hơn, trở thành men trong bột nơi tất cả môi trường sống và hoạt động tông đồ của em!"

 

Tôi hoàn toàn thâm tín và cảm nghiệm như thế. Cái di sản vô giá ngài để lại cho tôi đó là chính cái căn tính (ID) Đồng Công, là Lư Tưởng Thánh Đồng Công, ở chỗ theo đuổi Lư Tưởng Thánh trước hết và trên hết, chỉ biết t́m Nước Chúa và sự công chính của Người trước (x Mt 6:33), một Lư Tưởng Thánh được hiện thực nơi ba tinh thần nồng cốt của ḍng là Bỏ Ḿnh, Yêu Nhau và Tận Hiến, cũng như nơi ba ḷng tôn sùng đặc biệt của ḍng là ḷng tôn sùng Đức Thánh Cha, Thánh Mẫu và Thánh Thể.

 

Tôi phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp ngài, dù không được ở gần ngài cho tới giây phút ngài ĺa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, biết rơ là tôi hết ḷng biết ơn ngài, hết ḷng cảm phục ngài, hết ḷng gắn bó với ngài, đă cho tôi được măn nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ c̣n biết rơi lệ nh́n ngài! Tôi có ư định sẽ về để tham dự lễ an táng ngài, nhưng v́ bận bịu công vụ dồn dập không thể bỏ đi và v́ thủ tục xin visa lâu la nên tôi đành ngậm ngùi theo dơi diễn tiến và h́nh ảnh cuối đời của ngài qua các điện thư của nhà Ḍng. 

 

Cuộc Khổ Nạn Cuối Đời

 

Vào đầu tháng 8/2006, ngài đă bị tai biến mạch máu năo mà không biết. Vào ngày 8/8 ngài mới được đưa vào bệnh viện để chữa trị. Sau khi ở bệnh viện này một ngày một đêm, ngài vẫn không khá hơn mà lại tỏ ư muốn về nhà ḍng. V́ tại bệnh viện ngài không ăn được và ngủ được, có lẽ là v́ nhớ anh em.

 

Vào ngày 11/8, sức khỏe của ngài càng ngày càng tệ. Ngài chỉ ăn được cháo và phải có người đút cho. Ăn uống chẳng c̣n ra bữa, lúc nào đói th́ ăn, bất kể ngày đêm. Có ngày không ăn ǵ nhưng ban đêm lại ăn hai lần. Vấn đề vệ sinh th́ hoàn toàn không c̣n làm chủ được nữa, ngài phải mang tă. Tất cả mọi sự đều nhờ anh em giúp. Hoàn toàn cải lăo hoàn đồng về thể lư. Ngài không c̣n dâng lễ được nữa, mà c̣n chỉ chịu Ḿnh Thánh được thôi. Ngài nói rất khó nghe, v́ lưỡi không c̣n cử động dễ dàng như trước. Tay phải và chân phải bị liệt, phải ngồi trong xe lăn. 

 

 

Ngày 03/01/2007, ngài rất yếu mệt, sau mấy ngày liền không ăn ngủ ǵ, nên anh em Ḍng đă đưa ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, quận 5, và ngài tỏ ra rất sẵn sàng về với Chúa sau khi lănh phép Xức Dầu và của Ăn Đàng. Nhờ ăn bằng ống và thở bằng ống, sức khỏe ngài khả quan hơn một chút. Theo bác sĩ th́ ngài vẫn c̣n bị triệu chứng tai biến mạch máu năo, viêm phế quản măn tính, viêm phổi măn tính và huyết áp thấp.

 

Nhưng với những lời cầu nguyện và hy sinh thiết tha của anh em Ḍng cũng như của những người thân quen, Chúa và Đức Mẹ lại thương đưa ngài về chung sống với đoàn em vào ngày 09.01.2007, nhưng vẫn phải tiếp tục ăn bằng ống.

 

Ngày 11.06.2007, bệnh t́nh ngài trở nặng, anh em ḍng lại đưa ngài đi cấp cứu. Ngày 15/06/2007, bệnh ngài trở nên nguy kịch, các bác sĩ quyết định đưa ngài vào pḥng hồi sức đặc biệt. Ngài rất khó thở và phải thở bằng ống. Các bác sĩ nói họ không ngờ ngài có thể sống được tới bấy giờ, và không c̣n sống được bao lâu nữa.  

 

 

Thật vậy, mọi phương cách đều phải khuất phục Thánh ư Chúa và Người đă gọi ngài về với Người lúc 8 giờ 45 tối Thứ Năm ngày 21/06/2007, tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, hưởng thọ 101 năm tuổi.

 

Trời Canvê Ngày An Táng

 

Suốt thời gian quàn ngài trong nhà nguyện, ngày nào cung mưa, có khi mưa rả rích suốt đêm và mưa lớn ban ngày, giông gió giật mạnh làm các tấm dù căng trên lễ đài phải giăng kéo bằng nhiều sợi dây cáp và dây dù. Việc căng các biểu ngữ cũng gặp phải nhiều khó khăn v́ "mưa".  

 

Ngày 25 phải đội mưa để căng cho xong, thế mà, sáng ngày 26 trời vẫn mưa rả rích cho đến 6g30 sáng th́ tạnh hẳn. Lúc này phải đi lau từng chiếc ghế đă kê trong lễ đài ... trời mát và có chút gió.

 

Nghi thức di quan lúc 7g15 và đến 7g35 mới chính thức làm dấu đầu lễ th́ bầu trời đă có nắng, ít mây hơn. Đôi lúc cũng có nắng gắt. Nhưng đến quăng 8g15 th́ trời kéo nhiều mây đen hơn, đe dọa, cũng có ít hạt mưa đâu đó và bầu trời tối hơn... Chừng một khắc sau trời lại trở lại quang đăng b́nh thường với chút nắng  cho đến xong lễ.

  

Lúc Di quan tiễn ngài ra đất thánh cũng chỉ có nắng nhẹ, mát mẻ hơn nhưng khoảng 9g50 th́ mây đen kịt kéo đến che lấp cả bầu trời. Ai cũng nghĩ là không xong, chắc phải đội mưa mà an táng cho xong. Ban tổ chức đă mua sẵn 5000 áo mưa du lịch để sẵn, nếu cần th́ mặc vào và dự cho đến hoàn tất và nhất định không chạy mưa v́ chỗ đâu mà chạy. Nhưng mọi ư nghĩ của con người chẳng phù hợp với ư nghĩ của Chúa. Chừng một khắc sau trời lại quang đăng cho đến khi an táng xong. Trời nắng gắt hơn một chút v́ đă hơn 10g.   

 

 

Bài Giảng Lễ An Táng của Đức Cha Đà Nẵng

 

Sau đây là một số đoạn chính yếu tiêu biểu trong bài giảng dài 17 phút của Đức Cha Châu Ngọc Tri, Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng, cho Lễ An Táng của Cha Thủ:

 

“Kính thưa Cộng Đoàn Phụng Vụ,

 

“Hôm nay, giữa cộng đoàn đông đủ của chúng ta không phải chỉ có một người chết. V́ là cái đinh của buổi lễ hôm nay chín h là Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ, đă sống trên 100 năm, 70 năm linh mục, là vị sáng lập Ḍng Đồng Công. Và c̣n một người thứ hai nữa không biết chúng ta có để ư không? Đây là một người đàn ông chỉ 33 tuổi…

 

“Hai cái chết, hai cuộc đời. Cuộc đời Đấng Cứu Thế và c uộc đời của người đi theo Đấng Cứu Thế. Cái chết của Thiên Chúa làm người và cái chết của con người. Cuộc đời này là cảm hứng cho cuộc đời kia. Cái chết này là bảo đảm chắc chắn cho cái chết nọ…

 

“Được tin Cha Đaminh Maria qua đời, một linh mục có tuổi đang nói chuyện với tôi, đă nhận định ngay rằng Cha Thủ có lẽ sẽ nên thánh cả chiếu lẫn giường…

 

“Tôi không muốn kể lễ dài ḍng về cuộc sống của ngài. V́ tôi không được biết nhiều, và tôi cũng không có quyền phong thánh cho ngài. Nhưng mà những ǵ tôi nghe được, những ǵ đang diễn ra hôm nay trước mắt chúng ta, với đông đảo các linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân trong một mầu trắng tang chế thương tiếc, cho tôi cái cảm giác rằng ngài đă nên thánh và ngài đang sống trong b́nh an, trong hạnh phúc. Bởi v́, cuộc đời của ngài đă chọn những phương tiện nên thánh chắc chắn nhất, đó là thập giá Đức Giêsu (biệt chú của người viết, trong cuốn video những năm cuối đời của ngài cho thấy ngài hôn Thánh Giá rất lâu trước khi ngủ và đặt Thánh Giá trên môi trong khi ngủ), với cuộc sống đầy khổ hạnh của ngài, và Đức Maria mà ngài đă nhận làm Mẹ và làm Mẹ của cả hội ḍng ngài thành lập…

 

“Cha Đaminh Maria, từ ngày thành lập, đă đem Mẹ về ḍng ḿnh. Khi chọn tên gọi cho ḍng là Ḍng Đồng Công. Và hơn thế nữa, ngài c̣n muốn mọi thành viên của ḍng đem mẹ về nhà ḿnh bằng cách đặt tên hiệu của Mẹ sau tên thánh rửa tội của ḿnh. C̣n chính ngài mang tên thánh là Đaminh Maria…

 

Thân xác cha Đaminh Maria đang c̣n ở đây với chúng ta trong phút chốc nữa. Ngài đang tham dự Thánh Lễ sau cùng với chúng ta, rồi thân xác ngài sẽ được vú sâu vào ḷng đất này. Nhưng đức tin của ngài, gương sống của ngài, sự nghiệp Đồng Công của ngài, tôi tin rằng sẽ măi c̣n tồn tại… 

 

“Cùng Cha Đaminh Maria. Chúc mừng cha được Chúa gọi về. Chúc cha luôn b́nh an hạnh phúc. Và một chút riêng tư, tôi cũng gửi lời thăm Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chia, Giám Mục tiên khởi giáo phận Đà Nẵng, vị tiền nhiệm đáng kính của con. Chính người đă ban sắc thành lập Ḍng Đồng Công ngày 2/2/1953 tại Bùi Chu, và cũng chính ngài đă nhận lời khấn trọn đời của cha Đaminh Maria vào ngày 2/2/1955 tại nhà thờ Gia Định.

 

“Cùng anh em trong đại gia đ́nh Đồng Công. Xin chia buồn trước sự ra đi của Người Anh Cả của anh em. Như Chúa Kitô đă chết để Giáo Hội lớn mạnh, Chúa gọi người Anh Cả về để gia đ́nh Đồng Công được thêm phát triển. Kính chúc anh em luôn thăng tiến...”

 

Hạt Lúa Miến Mục Nát…

 

Lễ an táng của ngài được tường tŕnh là có trên 4000 giáo dân, 1200 tu sĩ nam nữ, 210 vị linh mục, 3 đan viện phụ và 2 giám mục, chưa kể 100 công an được sai phái đến để giữ trật tự và đề pḥng bất trắc xẩy ra.

 

Theo tôi, trong một thời điểm đang hết sức căng thẳng và sôi động tại Việt Nam về t́nh h́nh đàn áp thành phần lên tiếng về nhân quyền mà lại có một cuộc tụ họp đông đảo như vậy th́ phải kể là sự lạ, như đám tang có thể nói là vĩ đại nhất trong lịch sử loài người diễn ra ở Vatican hôm Thứ Sáu 8/4/2005, với 500 ngàn người tại ngay Quảng Trường Thánh Phêrô, bao gồm trên 300 vị đại diện chính trị và tôn giáo, 600 ngàn người ở các vùng lận cận theo dơi bằng màn ảnh lớn, mà không xẩy ra một bất trắc nào, trong thời điểm đang gia tăng nạn khủng bố toàn cầu.

 

Nếu năm 1987, cá nhân Cha Thủ và cộng đồng Ḍng Đồng Công đă bị công an đầu tiên bắt v́ tội “tụ họp bất hợp pháp” 60 người thuộc tổ chức Gia Đ́nh Đồng Công ở Nhà 30 Gian sát ngay nghĩa trang, th́ 20 năm sau, một cuộc tụ họp khác c̣n đông gấp trăm lần như vậy, được 100 công an sai đến canh giữ trật tự, không phải là sự lạ hay sao?

 

Cả việc thẩm quyền địa phương không cho phép ngài được chôn táng ngài tại nội vi của nhà ḍng, song phải mang ra nghĩa trang mà chôn, cũng không ngoài ư Chúa. Theo lịch sử, nếu cộng sản đă hết sức khôn khéo t́m cách chống phá Giáo Hội Công Giáo nói chung và Giáo Hội Balan nói riêng, mà vẫn từ ngay nước cộng sản Balan này xuất hiện một vị Giáo Hoàng không phải người Ư sau 455 năm thế nào, th́ nơi trường hợp đổi chỗ an táng cho Cha Thủ cũng chất chứa một ư nhiệm nào đó.

 

Phải chăng, v́ Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ là của mọi người, nên ngài thuộc về mọi người, chứ không riêng của Ḍng Đồng Công, v́ ngài chẳng những được Chúa dùng để sáng lập Ḍng Đồng Công mà c̣n được sai đến để lo huấn thánh cho người Việt Nam, nơi hội ḍng Việt Nam đầu tiên do ngài lập nên chính v́ mục đích này, và, v́ ngài đă thiết tha với đất nước dân tộc Việt Nam, bằng việc liên lỉ xin ơn ḥa b́nh cho Việt Nam, qua các kinh nguyện của ngài dọn cho anh em ḍng đọc?! Phải chăng biến cố đổi chỗ chôn táng Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ này đă ứng nghiệm lời Chúa: “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, song đặt nó trên giá để  nó soi sáng cho cả nhà” (Mt 5:15)!?

 

Tóm lại, cuộc đời của vị linh mục được Thiên Chúa sử dụng sáng lập Ḍng Đồng Công chẳng khác ǵ bầu trời Canvê như ngày an táng ngài. Cuộc khổ nạn cuối đời của ngài cũng tương tự như cuộc khổ nạn của Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng đă không nói được nữa vào chính lúc ban huấn từ Lạy Nữ Vương cho Chúa Nhật Phục Sinh 27/3/2005, và đă bị hôn mê rồi qua đi trong bệnh tật hôm Thứ Bảy 2/4, sau khi nhập bệnh viện mấy lần, v́ những chứng bệnh trầm trọng khác nhau, như bị đột xuất nhiễm trùng, bị hư tâm mạch bất khả văn hồi, bị xưng ống tiểu tiện v́ nhiễm trùng, bị tăng áp huyết tim và thiếu máu cục bộ.

 

Cuộc khổ nạn của Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ cũng thế, cũng hầu như bị cấm khẩu và nhập bệnh viện mấy lần v́ các chứng bệnh khác nhau, như bị tai biến mạch máu năo, viêm phế quản măn tính, viêm phổi măn tính và huyết áp thấp. Thậm chí, như Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn và Tử Giá đă không c̣n h́nh thù loài người và dung nhan con người thế nào (x Is 52:13-14), vị linh mục sáng lập Ḍng Đồng Công biệt danh Đaminh Maria Thánh Giá cũng đă hoàn toàn biến dạng và biến diện, không c̣n tầm vóc cân đối và khuôn mặt đẹp lăo của ngài nữa, khi ngài vào bệnh viện lần cuối! Tôi đă giật ḿnh đến kinh sợ khi nh́n thấy tấm h́nh của ngài đang nằm trên giường vào những giờ phút cuối cùng, được một người con của anh em thân hữu Đồng Công ở Việt Nam đă chụp lén nhà thương.

 

Một trùng hợp nữa, ngoài cuộc khổ nạn cuối đời, giữa Cha Đaminh Maria và Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng “totus tuus”, đó là cả hai đă sống đời tận hiến cho Mẹ Maria theo đường lối của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) trong tác phẩm Luận Về Ḷng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của thánh nhân, một cuốn cẩm nang Thánh Mẫu mà tu sĩ Đồng Công phải học hỏi trong năm tập, một thời gian được mở màn bằng Lễ Nghi Tận Hiến cho Mẹ và được kết thúc bằng lờkhấn tạm lần đầu.

Phải chăng các vị thánh đều có một thân mệnh giống nhau, đó là được phúc uống chén đắng với Thày (Mt 20:22-23): “Thày đi để dọn chỗ cho các conrồi Thày sẽ trở lại với các con, để Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày” (Jn 14:3)?

 

Đúng thế, nếu ngay ở đời này, vị linh mục được ơn sáng lập Ḍng Đồng Công vào chính ngày Lễ Mẹ Đau Thương 4/4/1941 đă được Chúa Kitô Khổ Nạn và Tử Giá trở lại để đem ngài đi đến “chỗ” của Người, và ngài đă thực sự được mai táng với Người qua tất cả mọi khổ đau về cả tâm hồn lẫn thể xác của ḿnh trong cuộc hành tŕnh đức tin kéo dài trên 100 năm theo Người, th́ ngài cũng sẽ được chung phn vinh quang phục sinh với Người (x Rm 6:4), như một hạt lúa miến mục nát đi…

 

Biết đâu, sau 5 năm được cải táng để bắt đầu tiến tŕnh phong thánh cho ngài, người ta thấy được chẳng những một thân xác không hư thối, mà c̣n trở lại nguyên dạng, không c̣n dị dạng như trước khi chết nữa. Chính việc biến đổi này, nếu xẩy ra, th́ thực sự là dấu chứng cụ thể chẳng những cho thấy dấu vết phục sinh của ngài mà c̣n cả thánh đức của “Cha Thánh Thủ” nữa vậy. 

 

 

 

Cha Thủ - Tần Số Thánh

 

 

Thật là may cho tôi, tôi đă được diễm phúc gặp lại vị linh mục dẫn dắt tôi theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công này tại pḥng riêng của ngài. Ngài vẫn c̣n nhớ tôi. Ngài đă tiếp tôi, không phải là 5 hay 6 phút như mọi trường hợp khác, và như tôi đă được các vị thẩm quyền trong ḍng bấy giờ dặn ḍ kỹ lưỡng trước khi tôi được vào gặp ngài. Khi vào tới nơi th́ quả thực mới hiểu được lư do tại sao mọi người chỉ được gặp ngài 5 hay 6 phút. Ở chỗ, sức khỏe của ngài không cho phép! Đúng thế, hôm ấy hai cha con chúng tôi đă nằm để hàn huyên tâm sự với nhau. Theo thói quen hăm ḿnh không thay đổi, ngài vẫn nằm trên nền nhà. Hôm ấy, ngài nằm nghiêng về phía bên phải, lưng quay vào tường, để nói chuyện với tôi. Tôi cũng đă nằm sấp, hướng mặt về ngài, để nói chuyện với ngài.

 

 Ngày xưa, khi c̣n được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với nhau, một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên gần pḥng của ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên nền nhà ở trong pḥng của ngài, cho đến khi hết chuyện. Ngài không bao giờ ép ai gặp ngài, trừ khi ngài có chuyện cần gặp họ về vấn đề trách vụ của họ, hay liên quan đến vấn đề trầm trọng cần phải sửa ḿnh để nên thánh của họ. Trong cuộc gặp gỡ, ngài cũng không hạch hỏi hay đi sâu vào tâm hồn những ai xin gặp ngài, nếu họ không tự động tỏ ra cho ngài.

 

Tuy nhiên, ngài có thể thấu biết được t́nh trạng tâm hồn anh em của ngài hơn ai hết, thậm chí hơn cả chính họ nữa. Bởi vậy, có những người xin gặp ngài mà không được, trái lại, chỉ nhận được một câu nói vắn gọn của ngài: “cứ thế mà sống”. Hay có được gặp ngài th́ chỉ rất vắn tắt ngắn ngủi, bởi v́ hầu như chỉ có họ nói, nói tất cả những ǵ đầy lên trong óc của họ, đến nỗi họ viết cả ra giấy kẻo quên. Phần ngài, những ǵ được bàn hỏi, ngài trả lời vắn tắt, và những ǵ được tâm sự, ngài nghe biết vậy, cuối cùng, nếu cần, như một vị lang y, ngài bốc cho một thang thuốc thiêng liêng vắn tắt, bằng những lời khuyên hợp với từng tâm hồn, từng trường hợp, mà nếu họ tin tưởng và áp dụng thực hành, họ sẽ cảm thấy lời ngài dạy hoàn toàn là một phương dược linh nghiệm cho cuộc đời tận hiến theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công của họ.

 

Trong dịp được gặp ngài lần cuối cùng, giữ đúng lời hứa với những người anh em có trách nhiệm về thời lượng vắn vỏi được diện kiến với ngài, một thời lượng để đủ chào hỏi vài ba câu theo kiểu xă giao bề ngoài, sau khi nói chuyện với ngài được khoảng đúng 5-6 phút, tôi hỏi ngài có mệt không, ngài nói không, rồi ngài tự động tiếp tục nói chuyện với tôi, (làm cho bên ngoài hết sức thắc mắc nhưng không dám can thiệp vào nội bộ giữa ngài và tôi), cho đến đúng nửa tiếng (từ 4 đến 4 giờ 30 chiều), khi chính tôi, v́ giờ giấc hạn hẹp theo lịch tŕnh du lịch, đành phải “đoạn trường tân thanh” chấm dứt cuộc gặp gỡ lịch sử cuối cùng không bao giờ quên được này, không bao giờ tái diễn ấy.

 

Sở dĩ tôi có thể nói chuyện lâu với ngài như thế là v́, có thể nói, tôi đă bắt được trúng tần số của ngài, một tần số tôi đă quá quen thuộc. Như vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, khi c̣n là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin Joseph Ratzinger đă biết được tần số của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiên về triết lư nói chung và luân lư thần học vậy (xem tác phẩm Muối Đất - Salt of the Earth, ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997, trang 10), hay tần số của chính vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI này là phụng vụ, giáo hội và đức tin (cùng nguồn trang 49, 65-66). Vậy tần số của vị linh hướng đáng kính đáng mến của tôi đây là ǵ, nếu không phải là chính Lư Tưởng Thánh Đồng Công! 

 

Phải, hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết sức thân thương ban đầu, tôi đă lợi dụng câu ngài hỏi tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu nhập cuộc. Tôi thưa ngài rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho ngài nghe t́nh h́nh sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới thánh đức. Thế là ngài đă thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ hết, có lúc ngài đă vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi c̣n nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn như sau: “Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức tin mà không biết…. Ở bên Mỹ mà c̣n giữ được đức tin là một phép lạ đấy!”

 

Phần tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai qú xuống xin ngài ban phép lành tràn đầy ân phúc từ cuộc đời thánh đức của ngài, như xin ngài tiếp tục truyền nội lực thánh thiện của ngài cho ḿnh, tôi đă nói những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt) sau đây: "Em cùng gia đ́nh em về thăm Anh nhân dịp mừng Anh 100 tuổi. Trước hết để tỏ ḷng tri ân cảm tạ Anh. V́ không có Anh em đă không được như ngày hôm nay, và không có được một gia đ́nh như bây giờ. Tuy em không c̣n chính thức là một tu sĩ Đồng Công trong Ḍng, song em vẫn tiếp tục theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn cố gắng sống theo những ǵ Anh Cả đă truyền đạt cho em. Xin anh cầu cho em để em có thể trở thành một 'Đồng Công Nằm Vùng', sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, như men trong bột!"

 

Tôi phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp ngài, dù không được ở gần ngài cho tới giây phút ngài ĺa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, biết rơ là tôi hết ḷng biết ơn ngài, hết ḷng cảm phục ngài, hết ḷng gắn bó với ngài, đă cho tôi được măn nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ c̣n biết rơi lệ nh́n ngài! Cuộc đời trần gian của tôi đây, bao gồm cả gia đ́nh của tôi, lẫn sự nghiệp tông đồ của tôi, sẽ chẳng bao giờ có, nếu tôi không được trực tiếp ở với ngài trong nửa số thời lượng tu tŕ 18 năm 2 tháng của tôi (1966-1975). Tôi hoàn toàn thâm tín như thế. Cái di sản vô giá ngài để lại cho tôi, đó là sự thánh thiện, là ḷng hăng say nên thánh, là t́m nước Chúa trước, là tinh thần tận hiến, là chính ID Đồng Công, Lư Tưởng Thánh Đồng Công.

 

Xin hăy đọc những lời chia sẻ chân t́nh này, theo chiều hướng qui về và bắt nguồn từ Cha Thánh Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ, với nhiều chi tiết liên quan tới bản thân người viết, những chi tiết chỉ mang tính cách chứng cớ để làm sáng tỏ một Sự Thật Rạng Ngời - Veritatis Splendor về Vị Linh Hướng Thánh của tôi.